Ngày chị cả Hạnh lên xe hoa, trời mưa tầm tã như trút nước. Đó không phải là cơn mưa hồng phúc, mà như nước mắt của trời thương cho cái gia cảnh tang thương của ba chị em nhà họ Nguyễn. Bố mẹ vừa mất chưa đầy ba tháng vì bạo bệnh, nấm mồ chưa xanh cỏ, chị Hạnh – 18 tuổi, quyết định đi lấy chồng.
Chiếc xe hoa dính đầy bùn đất đỗ xịch trước cửa căn nhà cấp bốn dột nát. Thằng Hùng 12 tuổi bế cái An mới lên 3, hai đứa trẻ gầy gò, lem luốc chạy theo níu vạt áo cô dâu. – “Chị ơi… cho em đi với… đừng bỏ hai anh em”… – Cái An khóc ngằn ngặt, tay nó với với, bám chặt lấy tà áo dài đỏ của chị.
Hạnh quay lại, gương mặt trang điểm phấn son nhưng lạnh tanh không chút cảm xúc. Cô ta gạt mạnh tay, khiến cái An ngã dúi dụi xuống vũng nước đục ngầu. Hùng vội đỡ em dậy, ngước đôi mắt ầng ậng nước nhìn chị: – “Chị Hạnh, chị đi thật sao? Bố mẹ mất rồi, giờ chị cũng đi”…
Hạnh rũ sạch bùn trên áo, gằn giọng từng chữ, lời nói sắc như dao cứa vào tim hai đứa trẻ: – Tao 18 tuổi rồi, tao phải đi lấy chồng để đổi đời. Tao không thể gồng gánh nuôi chúng mày để khổ đến hết đời được. Bố mẹ mất rồi, thân đứa nào đứa ấy tự lo. Đừng có bám theo tao nữa, nhà chồng tao họ không chứa chấp của nợ đâu”. Nói rồi, Hạnh chui tọt vào xe hoa, đóng sầm cửa lại. Chiếc xe rồ ga phóng đi, bỏ lại hai đứa trẻ bơ vơ giữa màn mưa trắng xóa.
Hùng đứng lặng người nhìn theo chiếc xe khuất dần sau lũy tre làng. Trong đầu thằng bé 12 tuổi lúc ấy cũng lóe lên một ý nghĩ đen tối: “Hay là mình cũng bỏ đi? Nghe nói ra thành phố đánh giày, bán báo cũng sống được. Chứ ở lại cái làng quê nghèo xơ xác này, lấy gì mà ăn”? Hùng đã định bước đi, định mặc kệ tất cả. Nhưng rồi, tiếng khóc ré lên của cái An kéo nó giật ngược trở lại thực tại. – “Anh Hùng ơi… em đói… mẹ đâu rồi… chị đâu rồi”…
Hùng cúi xuống nhìn em. Đứa em gái bé bỏng, bụng lép kẹp, mặt mũi lấm lem bùn đất đang run lên cầm cập vì rét. Nếu nó đi, con bé này sẽ chết. Chắc chắn sẽ chết. Hùng nghiến chặt răng, nuốt nước mắt vào trong. Nó cõng em quay vào nhà, đặt em lên cái chõng tre cũ nát. – An ngoan, đợi anh một tí. Anh đi kiếm cái ăn.
Hùng đội mưa chạy ra ruộng khoai đã thu hoạch của người ta, dùng đôi tay trần bới móc trong bùn đất lạnh buốt để mót những củ khoai sót lại. Móng tay bật máu, nhưng nó không thấy đau. Nó mang về được 3 củ khoai nhỏ xíu, luộc lên nóng hổi. Nhìn cái An ăn ngấu nghiến, vừa ăn vừa nấc, Hùng thầm thề với vong linh bố mẹ: “Con sẽ không bỏ em. Có rau ăn rau, có cháo ăn cháo, anh em con sẽ nuôi nhau”.
Chúng nó đâu còn chỗ nào để dựa, ông bà nội ngoại mất cả rồi, họ hàng nhà nội thì từ ngày bố mẹ nó mất có ai thèm nhóm ngó đến anh em nó đâu. Ngày chị nó đi lấy chồng họ đến chúc mừng chị chứ cũng chẳng ai thèm hỏi han anh em nó một câu, chỉ có vài người hàng xóm tốt bụng thi thoảng cho ít gạo.
Hai mươi năm trôi qua. Hai mươi năm ấy là chuỗi ngày Hùng vắt kiệt sức mình. Từ đi mò cua bắt ốc, ai thuê gì làm nấy, đến khi lớn hơn thì đi phụ hồ, bốc vác. Hùng không dám nghỉ ngơi một ngày, chắt chiu từng đồng nuôi cái An ăn học. Trời thương, hai anh em đều sáng dạ, chịu khó. Cái An đỗ đại học, Hùng cũng vừa làm vừa học nghề, rồi mở xưởng cơ khí riêng.
Giờ đây, Hùng đã là ông chủ xưởng cơ khí lớn, cái An làm trưởng phòng marketing cho một tập đoàn nước ngoài. Thu nhập cả hai anh em cộng lại cả trăm triệu mỗi tháng. Họ đã mua được nhà chung cư cao cấp ở thành phố, có xe hơi đi lại. Nhưng căn nhà cấp bốn dột nát năm xưa ở quê, họ vẫn giữ nguyên, chỉ tu sửa lại làm nơi thờ cúng bố mẹ.
Bất ngờ, cơn sốt đất ập đến vùng quê nghèo. Mảnh đất hương hỏa của bố mẹ Hùng nằm ngay mặt đường dự án mở rộng, giá vọt lên 3 tỷ đồng. Và rồi, người chị gái năm xưa xuất hiện. Hạnh trở về, không còn là cô dâu xinh đẹp ngày nào, mà là một người đàn bà tàn tạ, khắc khổ. Chồng cờ bạc, nợ nần chồng chất, bị chủ nợ siết hết nhà cửa, Hạnh nhớ đến mảnh đất của bố mẹ như một chiếc phao cứu sinh cuối cùng.
Hạnh xông vào nhà, thấy hai em giờ sang trọng, thành đạt thì mắt sáng lên, nhưng rồi lại lấy cái uy của người chị cả ra để nói chuyện: – Dù sao tao cũng là chị cả. Bố mẹ mất đi không để lại di chúc, theo luật pháp tao cũng được hưởng một phần ba thừa kế. Mảnh đất này bán được 3 tỷ, chia ba mỗi đứa 1 tỷ. Tao đang cần tiền gấp, chúng mày bán ngay đi.
Cái An nhìn chị, ánh mắt lạnh lùng xa lạ. Nó nhớ lại cái ngày bị chị hất ngã xuống vũng bùn mà sau này anh nó nhiều lần nhắc lại. – “Chị cần tiền nên mới nhớ đến chúng tôi sao? 20 năm qua, chị ở đâu? Một cái kẹo chị cũng chưa từng gửi về cho chúng tôi”. Hạnh trơ trẽn gào lên: – “Máu chảy ruột mềm! Lúc đó tao còn trẻ người non dạ. Giờ tao khổ sở thế này, chúng mày giàu có nứt đố đổ vách mà tiếc chị ruột 1 tỷ bạc à”?
Hùng ngồi điềm tĩnh uống trà. Anh không nói gì, lẳng lặng đứng dậy đi vào phòng trong, mở chiếc hòm gỗ cũ kỹ – vật duy nhất còn sót lại từ ngày chị cả rời căn nhà rách nát ra đi. Anh lấy ra một tờ giấy ố vàng, mép giấy đã sờn rách, đặt xuống trước mặt Hạnh. – “Chị còn nhớ cái này không”? – Hùng hỏi, giọng trầm đục.
Hạnh nhìn thấy tờ giấy mặt biến sắc. Đó là tờ giấy cam kết viết tay nguệch ngoạc của chính Hạnh vào ngày cưới 20 năm trước. Ngày đó, để nhà chồng không nghi ngại việc cô phải đèo bòng hai đứa em, cô đã viết giấy này trước sự chứng kiến của trưởng thôn để chứng minh sự “trong sạch” của mình.
Hùng chậm rãi đọc to từng chữ trên tờ giấy mà anh đã thuộc lòng suốt 20 năm qua: “Tôi là Nguyễn Thị Hạnh. Nay tôi đi lấy chồng, tôi xin tự nguyện từ chối mọi quyền thừa kế tài sản, đất đai hương hỏa của bố mẹ để lại. Đồng thời, tôi cũng tuyên bố không còn trách nhiệm nuôi dưỡng hay liên quan gì đến hai em là Hùng và An. Sống chết sướng khổ thân ai nấy lo, sau này không ai được tìm ai đòi hỏi quyền lợi…”
Hạnh run rẩy, tờ giấy rơi khỏi tay bay lảo đảo xuống đất. Chữ ký của cô năm xưa vẫn còn đó, nét bút tàn nhẫn như nhát dao cắt đứt tình máu mủ. – “Chị Hạnh ạ”, – Hùng nói, giọng anh không còn oán hận, chỉ có sự xót xa – “Ngày chị viết tờ giấy này để rũ bỏ trách nhiệm, chị có nghĩ đến ngày hôm nay không? Chị sợ chúng tôi làm khổ chị, sợ phải chia sẻ bát cơm cho chúng tôi. Giờ đây, tờ giấy này có giá trị pháp lý hay không chưa bàn, nhưng về mặt lương tâm, chị đã tự tay gạch tên mình ra khỏi gia đình này từ 20 năm trước rồi”.
Cái An tiếp lời, mắt đỏ hoe: – “Ngày anh Hùng bới từng củ khoai mót về luộc cho em ăn, anh ấy đã khóc. Anh ấy bảo, cả thế giới này bỏ rơi anh em mình, nhưng anh không bao giờ bỏ em. Lúc đó chị ở đâu? Chị đang vui vầy bên nhà chồng giàu sang cơ mà. Giờ chị nợ nần, chị quay về đòi chia chác đất đai của bố mẹ? Chị không thấy ngượng với vong linh bố mẹ đang nhìn xuống à”?
Hạnh bẽ bàng, xấu hổ đến mức không dám ngẩng đầu lên. Những người hàng xóm hiếu kỳ đứng vây quanh cổng, ai nấy đều chỉ trỏ, lắc đầu ngao ngán cho người chị tham lam bạc bẽo. – “Chúng tôi sẽ không bán mảnh đất này” – Hùng tuyên bố dứt khoát – “Dù nó có giá 3 tỷ hay 30 tỷ. Tôi sẽ xây lại căn nhà này thành nhà thờ tổ, để thờ cúng bố mẹ và ông bà tổ tiên. Còn chị, chị về đi. Nếu chị đói, tôi có thể biếu chị bát cơm, nhưng tài sản hương hỏa thì một tấc chị cũng không có phần”.
Hạnh lủi thủi bước ra khỏi cổng, bóng dáng xiêu vẹo cô độc dưới ánh nắng chiều tà. Không có giọt nước mưa nào như 20 năm trước, nhưng trong lòng cô ta giờ đây là cả một cơn bão tố của sự ân hận muộn màng.
Sau này, ngôi nhà thờ họ khang trang mọc lên trên nền đất cũ. Hai anh em Hùng và An vẫn thường xuyên về hương khói. Họ sống hạnh phúc, thành đạt, minh chứng cho một chân lý: Tình thương và sự đùm bọc có thể giúp những mầm cây còi cọc vươn lên thành cổ thụ, còn sự ích kỷ chỉ dẫn lối đến ngõ cụt của cuộc đời.

