Ngày cưới anh trai tôi, cả nhà ai cũng tất bật lo toan. Mẹ thì vừa bận tiếp khách, vừa thấp thỏm lo lắng liệu đồ ăn có đủ hay không. Từ sáng sớm, các mâm cỗ đã được chuẩn bị, xếp hàng dài ngoài sân, mùi thơm phưng phức khiến ai đi ngang cũng phải hít hà.
Thế nhưng đến trưa, khi họ hàng bên nội kéo đến, chưa kịp ăn xong đã thấy người thì rút trong túi nilon, người thì lấy hộp nhựa, gói hết con gà, miếng giò, thậm chí cả bát canh nóng hổi. Ban đầu mẹ còn nghĩ chắc họ sợ lát đông khách, ngồi không đủ chỗ nên tranh thủ, nhưng càng lúc càng quá đáng: có người còn bê cả đĩa thịt ra ngoài cổng chia nhau, miệng vừa cười vừa bảo:– Thôi, gói tí về cho mấy đứa nhỏ ở nhà.
Đến khi khách quan, bạn bè của anh trai tôi đến đông, mọi người ngồi kín mâm, thì trời ơi – bàn tiệc trống huơ trống hoác. Những đĩa rau sống khô héo, mấy cái bát còn sót lại thì chỉ lưa thưa vài miếng. Người bạn thân của anh tôi ngơ ngác hỏi:– Ơ, đám cưới mà sao không có gì ăn thế này?
Mặt mẹ tôi đỏ bừng, chị dâu đứng ngồi không yên, còn tôi thì sôi máu. Anh trai tôi vốn hiền, chỉ biết cười gượng, nhưng cái cười ấy chua chát đến nao lòng.
Đỉnh điểm là lúc MC gọi mọi người nâng ly chúc phúc cho cô dâu chú rể, cả hội trường im phăng phắc vì… không còn rượu để rót. Thì ra mấy ông chú bên nội, sau khi ăn uống no say, còn khệ nệ xách cả két bia về.
Không khí vui vẻ phút chốc hóa thành cảnh ngượng ngập, cô dâu mặt tái mét, anh trai tôi giận tím người nhưng vẫn phải cố nuốt xuống. Khách khứa nhìn nhau xì xào, rồi dần bỏ về sớm.
Đám cưới lẽ ra là ngày vui nhất của đời người, nhưng nhờ “thói quen gói mang về” của họ hàng mà biến thành một vết nhơ khó gột. Tối hôm ấy, khi nhà vắng khách, mẹ tôi ngồi thụp xuống ghế, bật khóc nức nở:– Từ nay tao cạch… không bao giờ còn tổ chức gì to nữa!
Sau đám cưới, không khí trong nhà nặng như đeo đá. Cả họ hàng bên nội vẫn vô tư cười nói, khoe khoang chiến tích mang được bao nhiêu đồ về. Nghe mà ruột gan tôi sôi lên.
Tối hôm ấy, khi cả gia đình tụ tập dọn dẹp, anh trai tôi ngồi phịch xuống ghế, mắt đỏ hoe:– Em thấy chưa, đám cưới của anh mà biến thành trò cười. Bạn bè anh nhắn tin bảo chưa từng đi cái đám nào mà chẳng có gì ăn, anh nhục lắm…
Mẹ tôi lau nước mắt, giọng run run:– Tao đã cố lo chu toàn, mà chúng nó… hại cả ngày vui của con.
Bố tôi thì không chịu được nữa, đứng bật dậy đập tay xuống bàn:– Mai tao sẽ nói thẳng trong họp họ! Đừng tưởng cứ danh nghĩa họ hàng mà muốn làm trò gì thì làm.
Sáng hôm sau, đúng như lời, bố triệu tập họp họ nhân tiện còn khách chưa về quê. Ngay trước mặt mọi người, bố nói rành rọt:– Đám cưới là để chúc phúc cho đôi trẻ, không phải cái chợ để ai muốn vơ vét thì vơ. Hôm qua các người làm chúng tôi mất mặt, làm con cháu chịu tiếng xấu với bạn bè. Từ nay, nếu còn ai tái diễn cái cảnh “ăn chưa no đã gói mang về”, đừng trách tôi tuyệt tình!
Cả gian nhà im phăng phắc. Một vài người đỏ mặt, bào chữa:– Thì cũng chỉ nghĩ cho mấy đứa nhỏ ở nhà thôi…– Nghĩ cho ai thì cũng phải nghĩ cho chủ nhà nữa! – Bố tôi gắt.
Anh em họ hàng ngồi cúi gằm mặt, chẳng dám ho he thêm lời. Chị dâu tôi rơm rớm nước mắt, còn anh trai thì nắm chặt tay bố, như muốn nói lời cảm ơn.
Từ đó về sau, mỗi dịp giỗ chạp, lễ tết, hễ có cỗ bàn là bố tôi cho chuẩn bị riêng một bàn “phần mang về” đặt sẵn ngoài bếp, ai thích thì lấy, còn tuyệt đối cấm cảnh ngang nhiên bê đồ ăn giữa tiệc.
Câu chuyện cưới hỏi năm ấy trở thành bài học đắt giá: đôi khi, điều làm hỏng ngày vui chẳng phải kẻ thù, mà chính là… người nhà.
Sau hôm họp họ, mối quan hệ trong gia đình không còn được như xưa. Mấy ông chú, bà bác vốn hay tụ tập chén rượu, nay thấy bố mẹ tôi thì tránh mặt. Người thì bóng gió:– Ở đời có ai nỡ chê họ hàng vì miếng ăn…Người thì nói thẳng:– Từ giờ chúng tôi chẳng thèm đến nữa, đỡ mang tiếng.
Những lần giỗ chạp sau, mâm cỗ trong nhà vắng hẳn bóng họ hàng nội. Lúc đầu mẹ tôi cũng chạnh lòng, sợ bị nói là “chia rẽ”, nhưng nghĩ đến ngày cưới anh trai, nước mắt lại trào ra. Mẹ bảo:– Thà ít người mà ấm cúng, còn hơn đông đủ mà chỉ biết mang về.
Anh trai tôi và chị dâu thì càng buồn hơn. Bạn bè của chị dâu vẫn kể lại chuyện hôm cưới như một giai thoại dở khóc dở cười. Có lần, đồng nghiệp còn trêu:– Cưới nhà chị chắc phải ăn no ở nhà trước rồi mới dám đi.Chị dâu cười gượng, nhưng sau lưng thì khóc thầm.
Còn tôi, mỗi khi gặp lại họ hàng bên nội, trong lòng vẫn còn nguyên cái cảm giác nghẹn ứ. Nhất là khi có người còn trâng tráo kể:– Hôm đó tao gói được cả con gà, mang về tụi nhỏ ăn mấy bữa liền!Nghe mà tức nghẹn họng, nhưng đành im lặng vì chẳng muốn mẹ thêm phiền lòng.
Dần dần, khoảng cách càng lớn. Mấy năm sau, đến đám giỗ ông nội, bố tôi thẳng thừng tuyên bố:– Ai đến thì ăn, ai muốn mang thì lấy phần chuẩn bị sẵn, còn ai không bằng lòng thì thôi, khỏi phải qua lại.
Từ đó, họ hàng bên nội hiếm khi còn tụ tập đông đủ như xưa. Ngày cưới của anh trai đã vô tình trở thành dấu mốc chia rẽ, khắc sâu một bài học cay đắng: trong gia đình, có những vết thương không phải do lời nặng tiếng nhẹ, mà do sự ích kỷ để lại.