“Tờ giấy gói bánh mì rác rưởi, một thứ tưởng như vặt vãnh bị người đời vứt bỏ, lại chính là bản án tử hình cho cuộc hôn nhân mà tôi dùng cả thanh xuân để vun đắp.”
Tôi tên Thành, năm nay 33 tuổi, quê ở một vùng quê nghèo miền Trung nắng gió. Năm 2019, nhìn căn nhà cấp 4 dột nát và bố mẹ già yếu, tôi quyết định vay mượn ngân hàng để đi xuất khẩu lao động sang Đ.L. Ngày tôi đi, Huệ – vợ tôi đang mang thai đứa con đầu lòng được 4 tháng. Ở sân bay, Huệ khóc ướt đẫm vai áo tôi, thề thốt: “Anh cứ yên tâm đi làm, em ở nhà sinh con, chăm sóc bố mẹ, chờ ngày anh về.” Tôi mang theo lời hứa ấy, bước lên máy bay với niềm tin sắt đá.
Cuộc sống nơi xứ người chưa bao giờ là màu hồng. Tôi làm công nhân trong một xưởng cơ khí nặng nhọc, tăng ca triền miên. Có những ngày làm việc 14 tiếng, tay chân rã rời, tôi chỉ dám ăn mì gói để tiết kiệm từng đồng gửi về cho vợ. Mỗi tháng nhận lương, tôi giữ lại một ít đủ sống, còn lại chuyển hết cho Huệ. Qua màn hình điện thoại, tôi thấy căn nhà khang trang dần mọc lên, thấy con trai lớn (bé Bin) lớn lên từng ngày. Năm thứ ba, tôi tranh thủ về phép 2 tuần dịp Tết. Đó là những ngày hạnh phúc ngắn ngủi. Sau khi tôi sang lại Đ.L được một thời gian thì Huệ báo tin có bầu bé thứ hai (bé Bống). Tôi mừng rơi nước mắt, tự nhủ cày cuốc thêm 2 năm nữa rồi về hẳn, lúc đó “một vợ hai con, nhà cao cửa rộng” là viên mãn.
Tháng trước, tôi kết thúc hợp đồng về nước. Cảm giác đặt chân xuống mảnh đất quê hương sau 5 năm thật khó tả. Căn nhà 2 tầng tôi gửi tiền về xây đẹp nhất xóm. Huệ ra đón tôi, vẫn xinh đẹp, mặn mà hơn xưa. Nhưng khi nhìn thấy hai đứa trẻ, nụ cười của tôi bỗng sượng lại. Bé Bin 5 tuổi và bé Bống 2 tuổi đều rất xinh xắn. Nhưng thằng Bin có đôi mắt một mí sắc lẹm, còn bé Bống thì tóc xoăn tự nhiên. Trong khi cả dòng họ nhà tôi và nhà vợ đều mắt hai mí, tóc thẳng. Càng nhìn, tôi càng thấy chúng chẳng có nét nào giống mình.
Trực giác của một người cha khiến tôi bất an, nhưng lý trí lại gạt đi ngay. Tôi tự trách mình đa nghi, xa nhà lâu ngày nên tâm lý không ổn định. Tôi không muốn trở thành gã chồng nhỏ nhen, vừa về đã soi mói vợ con. Nhưng có một điều lạ là thái độ của hàng xóm. Mọi người đến chơi, chúc mừng tôi về nước nhưng ánh mắt họ nhìn tôi rất lạ, có chút ái ngại, thương hại.
Sáng hôm ấy, tôi dậy sớm đi bộ ra đầu ngõ mua bánh mì cho cả nhà, muốn tìm lại hương vị quê hương. Quán bánh mì của bà Tám vẫn đông khách như xưa. Thấy tôi, bà Tám khựng lại một chút rồi cười gượng: “Thằng Thành về rồi đấy à? Trông già đi nhiều quá con ơi. Khổ thân…” Tôi cười xòa, mua 3 ổ bánh mì rồi đi về. Về đến nhà, tôi ngồi xuống bàn, bóc lớp giấy báo cũ gói bên ngoài ổ bánh mì ra để ăn.
Thói quen nghề nghiệp khiến tôi liếc nhìn tờ giấy gói. Bà Tám hay mua giấy vụn, giấy phế liệu từ các tiệm photocopy hay trường học về để gói bánh. Tờ giấy trên tay tôi là một tờ giấy A4 bị in hỏng một mặt, mặt kia vẫn trắng tinh. Nhưng dòng chữ in trên mặt hỏng đó đập vào mắt tôi, khiến miếng bánh mì trong miệng trở nên đắng ngắt.
Đó là “Giấy cam kết đóng góp quỹ phụ huynh học sinh” của trường mầm non xã. Nội dung ghi rõ:
Tôi dụi mắt, đọc đi đọc lại ba lần. Lê Văn Hưng? Đó là gã hàng xóm độc thân sát vách nhà tôi. Người mà tôi vẫn coi là anh em tốt, thỉnh thoảng nhờ sang sửa điện nước giúp vợ lúc tôi vắng nhà. Tại sao trong giấy tờ ở trường, hắn lại đứng tên là “Bố” của con tôi?
Tôi cầm tờ giấy đầy dầu mỡ ấy, tay run lẩy bẩy đi vào phòng ngủ. Huệ đang chải tóc trước gương. Tôi ném tờ giấy xuống bàn trang điểm, giọng lạc đi: “Huệ, em giải thích đi. Tại sao thằng Hưng hàng xóm lại là bố của bé Bin trên giấy tờ nhà trường?” Huệ quay lại, nhìn thấy tờ giấy, mặt cô ấy cắt không còn giọt máu. Cô ấy lắp bắp, định chối quanh nhưng nhìn ánh mắt đỏ ngầu của tôi, Huệ biết không thể giấu được nữa. Cô ấy sụp xuống chân tôi, òa khóc nức nở.
Sự thật được phơi bày tàn nhẫn hơn cả những gì tôi tưởng tượng. Huệ thú nhận, năm đầu tôi đi, cô ấy buồn chán và cô đơn. Hưng thường xuyên sang giúp đỡ, an ủi. “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, họ đã lén lút qua lại với nhau. Bé Bin… là con của Hưng. Còn bé Bống? Huệ cúi gằm mặt: “Lần anh về phép năm thứ 3… em và Hưng vẫn chưa dứt hẳn. Em… em cũng không chắc chắn bé Bống là con ai, nhưng khả năng cao là…”
Tai tôi ù đi. Mọi âm thanh xung quanh như tắt lịm. Tôi lảo đảo ngã ngồi xuống giường. 5 năm. 1.800 ngày đêm tôi bán sức lao động, chịu đựng sự khinh miệt nơi xứ người, ăn không dám ăn, mặc không dám mặc. Tôi gửi hàng tỷ đồng về để nuôi nấng, chăm bẵm cho hai đứa con… của gã hàng xóm. Căn nhà to đẹp này, vợ đẹp này, con khôn này… tất cả chỉ là một màn kịch dối trá mà họ dựng lên để moi tiền của tôi.
Tôi lao sang nhà Hưng. Hắn ta vừa mở cửa, thấy tôi thì không hề bất ngờ hay sợ hãi. Hắn cúi đầu: “Tôi xin lỗi. Tôi biết ngày này sẽ đến. Tôi thương mẹ con cô ấy thật lòng, nhưng tôi nghèo, không lo được cho cô ấy như cậu…” Hóa ra, hắn và vợ tôi đã ngầm thỏa thuận: Huệ vẫn đóng vai vợ hiền để nhận tiền tôi gửi về nuôi con chung của hai người họ, còn Hưng thì đóng vai hàng xóm tốt bụng. Tôi cười như điên dại. Tôi không đánh hắn, vì tôi thấy tay mình bẩn nếu chạm vào loại người đó.
Giờ đây, tôi ngồi trong căn nhà lạnh lẽo do chính tiền mồ hôi nước mắt mình xây nên. Tiếng trẻ con cười đùa dưới nhà vọng lên như những mũi dao cứa vào tim tôi. Chúng không có tội, chúng vẫn gọi tôi là “Bố”, vẫn ôm cổ tôi mỗi tối. Nhưng mỗi lần nhìn chúng, hình ảnh gã hàng xóm lại hiện ra ám ảnh.
Ly hôn là điều chắc chắn. Nhưng tôi đau đớn quá. 33 tuổi, tay trắng lại hoàn trắng về mặt tình cảm, mang theo vết thương lòng sâu hoắm. Tờ giấy gói bánh mì người ta vất đi đã lột trần bộ mặt thật của cuộc hôn nhân giá trị hàng tỷ đồng. Cuộc đời này, sao lại tàn nhẫn với người lương thiện đến thế?

