Buổi tối định mệnh ấy bắt đầu bằng mùi thơm nồng nàn của món canh chua cá diêu hồng – món ăn mà anh trai tôi yêu thích nhất. Trong căn bếp nhỏ, chị dâu vừa ngân nga hát, vừa nhẹ nhàng nêm nếm nồi canh đang sôi sùng sục. Chị đang mang thai tháng thứ 5, bụng đã lùm lùm hiện rõ sau lớp váy bầu, nhưng khuôn mặt chị vẫn rạng ngời hạnh phúc. Cả nhà tôi quây quần bên mâm cơm, kim đồng hồ nhích dần sang con số 8, rồi 9 giờ tối.
Mưa bắt đầu nặng hạt, và anh tôi vẫn chưa về. Điện thoại đổ chuông từng hồi dài vô vọng.
Đến khi có người bắt máy, đó không phải là giọng nói ấm áp quen thuộc của anh, mà là giọng nói gấp gáp, xa lạ của một nhân viên y tế: “Chủ nhân số máy này bị tai nạn giao thông nghiêm trọng, đang cấp cứu tại bệnh viện…”
Chiếc muôi múc canh trên tay chị dâu rơi loảng xoảng xuống sàn nhà. Chị run lẩy bẩy, mặt cắt không còn giọt máu, nhưng tuyệt nhiên không hét lên một tiếng nào. Chị lặng lẽ gọi bố mẹ tôi dậy. Nhưng nghiệt ngã thay, khi cả nhà chưa kịp bước chân ra khỏi cửa, tin báo tử đã ập đến như sét đánh ngang tai. Anh trai tôi không qua khỏi.
Mẹ tôi ngất lịm ngay tại chỗ. Bố tôi, người đàn ông cả đời sương gió, cũng phải bám chặt vào khung cửa để không khuỵu xuống. Chỉ có chị dâu – người phụ nữ đang mang trong mình giọt máu của anh – là phản ứng một cách kỳ lạ. Chị ngã ngồi xuống ghế, đôi mắt mở to trân trân nhìn vào khoảng không vô định. Không gào khóc. Không một giọt nước mắt.
Suốt ba ngày tang lễ, không khí trong nhà nặng nề như đeo chì. Mẹ tôi khóc đến cạn nước mắt, ngất lên ngất xuống phải nhờ bác sĩ chăm sóc. Tôi và bố nén đau thương để lo hậu sự. Còn chị dâu, chị đứng bên quan tài chồng như một bức tượng đá. Chị tiếp khách, thắp hương, đáp lễ, mọi cử chỉ đều chuẩn mực nhưng lạnh lẽo đến rợn người.
Tiếng xì xầm bắt đầu len lỏi từ đầu ngõ đến cuối xóm. “Sao chồng chết mà mặt nó ráo hoảnh thế kia?” “Chắc chẳng thương yêu gì đâu, nghe đâu vợ chồng cũng hay lục đục.” “Hay là nó có người khác bên ngoài rồi? Chứ đàn bà ai lại sắt đá thế, đang bầu bí mà không khóc nổi một tiếng cho chồng.”
Nghe những lời đó, tôi uất nghẹn thay cho anh mình, nhưng cũng dấy lên trong lòng một nỗi nghi hoặc mơ hồ. Tôi biết chị dâu hiền lành, hết mực vì chồng con, nhưng thái độ “bình tĩnh” đến vô cảm của chị lúc này quả thực khiến người ta phải suy nghĩ.
Sự việc càng trở nên căng thẳng hơn sau khi đám tang kết thúc được vài tuần. Đêm nào cũng vậy, cứ tầm 11 giờ đêm, khi cả nhà đã tắt đèn đi ngủ, tôi lại nghe thấy tiếng cửa lách cách khe khẽ.
Lần đầu tiên, tôi nghĩ mình nghe nhầm. Nhưng đến lần thứ ba, tôi lén nhìn qua khe cửa sổ và thấy bóng chị dâu trùm kín áo khoác, lén lút dắt xe đạp đi ra ngoài. Trời đêm khuya khoắt, sương lạnh buốt giá, chị đi đâu?
Tin đồn chị dâu “ngoại tình”, “đi hú hí đêm khuya” bùng lên dữ dội trong xóm. Người ta bảo thấy chị đi về phía bờ sông, nơi vắng vẻ ít người qua lại. Mẹ tôi nghe được, bà đau đớn gặng hỏi. Chị dâu chỉ cúi gầm mặt, lắc đầu nói: “Con khó ngủ, con ra ngoài hóng gió cho dễ thở thôi mẹ ạ.”
Câu trả lời ấy không thuyết phục được ai. Sự im lặng và cam chịu của chị khiến tôi bực bội. Một buổi tối, không kìm được nóng giận, tôi đã lớn tiếng với chị: “Anh con cũng mất rồi, chị ráng mà sống sao cho tử tế. Đừng để bố mẹ con mang tiếng xấu với thiên hạ. Giờ ai trong nhà cũng đau buồn, chị đừng bắt mọi người phải lo thêm chuyện của chị nữa được không?”
Chị dâu sững người nhìn tôi. Đôi mắt chị hoe đỏ nhưng tuyệt nhiên vẫn không rơi lệ. Chị gật đầu, lầm lũi đi vào phòng đóng chặt cửa. Tôi đứng đó, lòng đầy hả hê vì nghĩ mình đã “dạy dỗ” được chị, nhưng sâu thẳm lại thấy xót xa vô cùng.
Đỉnh điểm là đêm hôm qua, tôi đi làm về muộn, tầm hơn 10 giờ tối. Khi xe chạy ngang qua cây cầu sắt cũ kỹ bắc qua sông – cách nhà tôi khoảng 2 cây số, tôi giật mình phanh gấp. Dưới ánh đèn đường vàng vọt, có một người phụ nữ đang đứng sát thành cầu. Dáng người gầy guộc, chiếc áo khoác quen thuộc. Là chị dâu!
Tôi tắt máy xe, rón rén lại gần. Chị không hề hay biết sự có mặt của tôi. Chị cứ đi tới đi lui, rồi bất ngờ ngồi thụp xuống, tháo đôi dép dưới chân ra, xếp ngay ngắn sang một bên. Chị vịn tay vào lan can cầu, nhoài người nhìn xuống dòng nước đen ngòm đang cuộn chảy xiết bên dưới.
Trong đầu tôi lóe lên một ý nghĩ kinh hoàng: Chị định tự tử!
Tôi hoảng hồn lao tới, hét lên thất thanh: “Chị ơi! Đừng!” rồi túm chặt lấy cánh tay chị, kéo giật lại phía sau.
Chị dâu giật bắn người, quay lại nhìn tôi với khuôn mặt thất thần. Và rồi, như một con đê vỡ toang sau bao ngày kìm nén, chị òa khóc. Lần đầu tiên kể từ khi anh trai tôi mất, tôi thấy chị khóc. Chị khóc đến rung bần bật cả người, tiếng nấc nghẹn ngào xé toạc màn đêm tĩnh mịch.
Chị lả đi trong vòng tay tôi, tay vẫn ôm chặt lấy bụng mình. Khi cơn xúc động qua đi, chị mới hổn hển nói trong nước mắt:
“Cô ơi… chị nhớ anh ấy quá! Chị nhớ anh ấy đến phát điên lên được! Đêm nào chị cũng ra đây, vì đây là nơi anh ấy từng chở chị đi dạo mỗi tối… Chị ra đây để kể chuyện cho anh nghe, để anh biết con hôm nay thế nào.”
Tôi sững sờ: “Thế sao chị lại định… trèo qua lan can?”
Chị lắc đầu nguầy nguậy, nước mắt lã chã: “Không, chị không định chết. Chị chỉ muốn nhìn xuống dòng nước, muốn hét lên gọi tên anh ấy nhưng chị không dám. Chị sợ…”
Chị hít một hơi sâu, giọng run run: “Mọi người trách chị không khóc. Nhưng cô có biết không, anh trai cô từng bảo anh sợ nhất là nhìn thấy chị khóc. Anh bảo nếu chị khóc, con trong bụng sẽ buồn, sẽ ảnh hưởng đến con. Ngày anh mất, chị đã định gào lên rồi, nhưng chị phải cắn chặt môi đến bật máu để nuốt nước mắt vào trong. Chị sợ mẹ nhìn thấy chị suy sụp mẹ sẽ không sống nổi. Chị sợ nếu chị khóc, chị sẽ yếu đuối mà buông xuôi tất cả, rồi ai lo cho con của anh đây?”
Nghe từng lời chị nói, tim tôi như bị ai bóp nghẹt. Hóa ra, đằng sau vẻ ngoài lạnh lùng, vô cảm ấy là một sự hy sinh vĩ đại. Chị không khóc không phải vì vô tình, mà vì chị quá thương chồng, thương con và thương cả gia đình tôi. Chị gồng mình lên để làm chỗ dựa tinh thần cho bố mẹ, chấp nhận mọi tiếng xấu về mình, chỉ lén lút ra đây mỗi đêm để được sống thật với nỗi đau của chính mình.
Tôi ôm chặt lấy thân hình gầy guộc của chị, bật khóc nức nở: “Em xin lỗi… Em và cả nhà đã sai rồi. Chị ơi, chị cứ khóc đi, khóc cho nhẹ lòng…”
Đêm ấy, hai chị em tôi ngồi bên thành cầu rất lâu. Gió sông lạnh buốt nhưng lòng tôi lại ấm áp lạ thường. Tôi dìu chị về nhà, thầm hứa với vong linh anh trai sẽ thay anh bảo vệ người phụ nữ kiên cường này.
Sáng hôm sau, tôi kể lại mọi chuyện cho bố mẹ. Mẹ tôi nghe xong thì òa khóc, chạy vào phòng ôm chầm lấy con dâu. Căn nhà u ám bấy lâu nay bỗng bừng lên một thứ ánh sáng của sự thấu hiểu và yêu thương. Nỗi đau mất mát vẫn còn đó, nhưng chúng tôi biết, mình sẽ cùng nhau vượt qua, vì một sinh linh bé bỏng sắp chào đời – kết tinh tình yêu của anh chị.

