Căn biệt thự của ba anh em thằng Hải nằm ở khu đất đắt đỏ nhất nhì thành phố, hôm nay đèn hoa rực rỡ. Hôm nay là ngày giỗ thứ mười lăm của bố mẹ chúng nó. Khách khứa ra về hết, chỉ còn lại ba anh em và hai vị khách không mời mà đến: Ông bà nội.
Ông nội rít một hơi thuốc lào, nhả khói mù mịt vào bộ sô-pha da nhập khẩu, giọng khàn khàn nhưng đầy vẻ bề trên: – Giờ chúng mày thành đạt cả rồi. Giám đốc nọ, trưởng phòng kia. Ông bà già này thì đau yếu, thuốc thang tốn kém. Tao tính rồi, mỗi tháng ba đứa gom lại đưa ông bà 20 triệu. Coi như là báo hiếu công sinh thành dưỡng dục của dòng họ Nguyễn này.
Thằng Út đang rót nước, tay khựng lại, nước tràn ra mép ly. Cái Ba nhếch mép cười nhạt, định đứng dậy nói gì đó nhưng anh cả Hải đưa tay chặn lại. Hải điềm tĩnh, đôi mắt sâu thẳm nhìn thẳng vào hai người già đang ngồi chễm chệ kia.
– 20 triệu một tháng? – Hải hỏi lại, giọng nhẹ tênh. – Chứ sao! – Bà nội xen vào, mắt liếc nhìn cơ ngơi tráng lệ – Nhà to thế này, xe hơi đậu đầy sân, 20 triệu với chúng mày chỉ là cái móng tay. Máu mủ ruột rà, không nuôi ông bà thì nuôi ai?
Hai chữ “máu mủ” như gáo nước sôi tạt thẳng vào ký ức của Hải, lôi tuột anh về mười lăm năm trước. Ngày ấy, bố mẹ mất vì tai nạn giao thông, để lại ba đứa trẻ nheo nhóc. Hải 12 tuổi, cái Ba lên 10, thằng Út mới lên 5. Đám tang vừa xong, người ta thấy ông bà nội đến. Ai cũng tưởng ông bà đón cháu về nuôi. Nhưng không, ông bà đến để chia chác mảnh đất hương hỏa mà bố mẹ Hải để lại, rồi phán một câu xanh rờn: “Số tụi này sát cha sát mẹ, rước về có ngày nó ám cả họ”.
Ba anh em bơ vơ trong căn nhà dột nát ven đê. Để có cái ăn, Hải và cái Ba phải trầm mình dưới những con mương đen ngòm, hôi thối để mò cua bắt ốc. Mùa đông, nước lạnh như cắt da cắt thịt, đôi tay thằng Hải nứt toác, rỉ máu. Có hôm mưa bão triền miên, trong nhà không còn một hạt gạo. Thằng Út khóc lả đi vì đói. Hải liều mình đội mưa sang nhà ông bà nội – ngôi nhà ngói đỏ khang trang cách đó chỉ hai con ngõ.
Hải đứng ngoài cổng, run rẩy gọi: – “Bà ơi… cho con xin bát gạo… em Út đói quá… Cánh cổng sắt lạnh lùng mở ra, nhưng không có bát gạo nào cả. Bà nội cầm cái chổi rễ, xua Hải như xua tà: – Cút! Cút ngay! Đã bảo đừng bén mảng sang đây xin xỏ. Tao không có nợ nần gì chúng mày. Đi chỗ khác mà ăn mày”! Cánh cổng đóng sầm lại. Hải lủi thủi quay về, nước mắt hòa lẫn nước mưa, mặn chát.
Chính lúc ba anh em ôm nhau co ro chờ chết đói, thì bà Tư – người đàn bà góa chồng ở cuối xóm xuất hiện. Bà Tư nghèo, bán rau ngoài chợ, con cái không có. Bà bưng sang một nồi cháo nóng hổi, vừa thổi vừa mớm cho thằng Út. – “Ăn đi con, ăn cho nóng. Khổ thân, tội nghiệp quá”… – Bà Tư vừa nói vừa quệt nước mắt.
Từ đó, bà Tư trở thành chỗ dựa duy nhất. Bà nhịn ăn sáng để cho ba đứa trẻ thêm bát cơm đầy. Bà vá lại từng cái áo rách, dạy thằng Út ê a đánh vần. Ba anh em lớn lên như cây cỏ dại, nhưng được tưới tắm bằng tình thương của người đàn bà xa lạ ấy. Ngày Hải nhận giấy báo đỗ Đại học Bách Khoa, cả xóm mừng, nhưng ba anh em lại khóc. Tiền đâu mà đi học? Tiền đâu mà nhập trường? Cái Ba và thằng Út định bỏ học đi làm thuê nuôi anh.
Đêm hôm đó, bà Tư sang. Bà run run lôi từ trong cái túi vải cũ kỹ ra một chiếc khăn tay gói kỹ ba chỉ vàng: – “Đây là của để dành dưỡng già của bà. Bà cho mỗi đứa một chỉ. Thằng Hải bán đi mà làm lộ phí lên Hà Nội. Cái Ba, thằng Út giữ lấy để phòng thân, cố mà học. Đừng bỏ cuộc, các con ạ. Đời bà dốt nát khổ rồi, các con phải học mới ngẩng đầu lên được”.
Ba anh em quỳ sụp xuống chân bà Tư khóc nức nở. Ba chỉ vàng ấy không chỉ là tiền, nó là sinh mệnh, là tương lai, là tấm vé duy nhất để ba đứa trẻ mồ côi thoát khỏi vũng lầy tăm tối. Mười lăm năm trôi qua, ba chỉ vàng ngày ấy đã nở hoa thành ba con người thành đạt hôm nay.
Trở lại thực tại, Hải nhìn ông bà nội, nụ cười trên môi anh trở nên chua chát. Anh đứng dậy, đi vào phòng trong và trở ra với một phong bì dày cộp. Anh đặt phong bì lên bàn, đẩy nhẹ về phía ông bà. – “Trong này là 20 triệu”.
Mắt ông bà nội sáng rực lên. Bà nội vội vàng vồ lấy phong bì, đếm nhoay nhoáy: – Đấy, tao biết mà. Chúng mày là đứa hiểu chuyện. Tháng sau cứ ngày này chuyển khoản cho tiện nhé. – “Không”! – Tiếng Hải vang lên đanh thép, cắt ngang sự hỉ hả của hai người già. – “Đây là lần đầu tiên, và cũng là lần duy nhất”. Ông nội cau mày, đập tay xuống bàn: – “Mày nói cái gì? Mày định bất hiếu à”?
Hải đứng thẳng người, giọng anh trầm xuống nhưng rõ từng từ, như đóng đinh vào không gian: – “Ông bà nói đúng, máu mủ là quan trọng. Nhưng máu mủ mà thấy cháu đói lả không cho nổi bát gạo, thấy cháu rét mướt đuổi đi như đuổi tà, thì dòng máu ấy lạnh lắm, chúng cháu không dám nhận”.
Cái Ba tiếp lời, mắt đỏ hoe vì uất ức dồn nén bao năm: – “Ngày anh em cháu đói, ông bà ở đâu? Ngày anh Hải đỗ đại học, phải bán sức lao động ở công trường, ông bà ở đâu? 20 triệu này, chúng cháu biếu ông bà coi như trả cái nghĩa sinh ra bố mẹ cháu. Còn từ nay về sau, xin ông bà đừng đến đây nữa”.
Bà nội tím mặt, chỉ tay run run: – “Quân… quân ăn cháo đá bát! Chúng mày giàu có mà kiệt sỉ với ông bà ruột thịt à? Tao sẽ đi rêu rao cho cả thiên hạ biết bộ mặt thật của chúng mày”!
– “Ông bà cứ tự nhiên”. – Thằng Út bây giờ mới lên tiếng, tay nó đang dìu một người phụ nữ già yếu từ phòng trong bước ra. Đó là bà Tư. Bà Tư giờ lưng đã còng, tóc bạc trắng, đi lại khó khăn. Nhưng bà đang mặc bộ quần áo lụa đẹp nhất, gương mặt toát lên vẻ hiền hậu, phúc hậu.
Hải bước tới, quỳ xuống đỡ bà Tư ngồi vào chiếc ghế trang trọng nhất, nơi dành cho cha mẹ. Anh quay sang nhìn ông bà nội đang sững sờ: – “Người mà chúng cháu cấp dưỡng hàng tháng, phụng dưỡng cả đời, là mẹ Tư đây. Người đã bán cả gia tài dưỡng già để chúng cháu có ngày hôm nay. Với chúng cháu, người cho bát cơm lúc đói, cho manh áo lúc rét, cho niềm tin lúc tuyệt vọng mới là cha, là mẹ”.
Hải quay sang bà Tư, giọng nghẹn ngào: – “Mẹ Tư, tháng này chúng con vừa chốt xong sổ tiết kiệm dưỡng già cho mẹ, và mỗi tháng biếu mẹ 20 triệu để mẹ đi chùa, làm từ thiện như ý mẹ muốn. Mẹ nhận cho tụi con vui”. Bà Tư xua tay, móm mém cười: – Cha bố anh, vẽ chuyện. Mẹ già rồi tiêu gì đến tiền. Các con sống tốt là mẹ mừng.
Ông bà nội ngồi trân trân, mặt đỏ bừng rồi chuyển sang tái mét vì xấu hổ và bẽ bàng. Không ai đuổi, nhưng họ tự cảm thấy căn nhà này, sự sang trọng này, và cả những đứa cháu tài giỏi kia… hoàn toàn không thuộc về họ. Cầm phong bì 20 triệu trên tay mà nặng như chì, hai người lẳng lặng đứng dậy, lủi thủi ra về giữa màn đêm lạnh lẽo.
Trong căn nhà ấm áp, ba anh em quây quần bên bà Tư, tiếng cười nói lại vang lên. Họ hiểu rằng: “Máu mủ sinh ra hình hài, nhưng ân tình mới sinh ra con người”.

