Tôi về làm dâu từ khi còn rất trẻ, mới hai mươi ba tuổi. Chồng tôi là con trai trưởng trong gia đình ba anh em, nên sau khi cưới, tôi dọn về sống cùng mẹ chồng. Từ đó, tôi bắt đầu hành trình làm dâu mà suốt mười lăm năm sau, mỗi lần nghĩ lại, tôi vẫn nghẹn ngào.
Tôi không có nhiều cơ hội nghỉ ngơi. Mỗi sáng dậy từ 5 giờ, lo bữa sáng cho cả nhà, sau đó đi làm, chiều về lại tất tả đi chợ, nấu cơm, giặt giũ, lau dọn, chăm sóc mẹ chồng. Bà không phải người khó tính, nhưng luôn nghiêm khắc và khắt khe với tôi – trong khi lại rất nhẹ nhàng với em dâu út.
Chồng tôi công tác xa, mỗi tháng chỉ về vài ngày, còn em trai và vợ thì ở riêng nhưng cuối tuần hay ghé nhà. Em dâu ăn nói khéo léo, lại hay mua quà đắt tiền biếu mẹ. Ngược lại, tôi không giỏi lời hay ý đẹp, chỉ biết cặm cụi lo toan từng bữa cơm, từng viên thuốc khi bà đau ốm.
Có những hôm tôi sốt cao vẫn phải cố gắng nấu cháo, sắc thuốc, vì “bà không yên tâm giao bếp cho ai khác”. Tôi lặng lẽ chịu đựng, nghĩ rằng chỉ cần sống hết lòng, người ta sẽ hiểu.
Thế rồi, khi mẹ chồng mất, mọi thứ mới vỡ ra.
Buổi họp gia đình để đọc di chúc diễn ra trong không khí trịnh trọng. Cả ba anh em cùng họ hàng thân thích đều có mặt. Ai cũng cho rằng sau ngần ấy năm tôi sống chung và chăm sóc mẹ chồng, bà sẽ để lại cho tôi ít nhiều.
Thế nhưng, khi luật sư đọc di chúc, tôi chết lặng.
– “Toàn bộ ba căn nhà mặt tiền tôi để lại cho con trai út và con dâu út – Hạnh – vì chúng biết cách làm ăn, lại hiếu thuận.”
– “Con dâu trưởng – chị Lan – tôi không để lại tài sản gì, vì tôi tin chị sống biết điều, không tranh giành, không chấp nhặt.”
Tôi cúi đầu, không phản bác, không nước mắt. Nhưng trong lòng là một vùng trống rỗng. Cả mười lăm năm tận tụy, rốt cuộc chỉ gói gọn trong một dòng: “không chấp nhặt”.
Chiều hôm đó, tôi lặng lẽ dọn phòng mẹ chồng. Trong góc bếp có một túi đồ cũ mà em dâu bảo định mang đi bỏ. Tôi lật xem thì thấy cái ca sứ tôi từng mua cho bà từ hơn mười năm trước – loại ca có lót đế cao su chống nóng mà ngày nào tôi cũng dùng để pha sữa hoặc nước ấm cho bà uống đêm.
Ca sứ đã ngả màu, phần đế lót đã mòn, hơi lỏng. Tôi bất giác rửa sạch lại cái ca, định giữ làm kỷ niệm. Trong lúc lau khô, tôi thấy đế cao su hơi nhô lên bất thường. Tò mò, tôi dùng dao nhỏ cạy thử. Bên trong là một mảnh giấy nhỏ được bọc nilon, cuộn lại kỹ càng.
Tôi mở ra, tay run nhẹ. Là nét chữ quen thuộc của mẹ chồng:
“Lan, nếu con còn giữ cái ca này, nghĩa là con vẫn nhớ những điều nhỏ bé. Mẹ xin lỗi vì không công bằng với con. Ba căn nhà mẹ để lại vì áp lực, nhưng đây mới là tài sản mẹ dành riêng cho con. Con mang mảnh giấy này đến gặp luật sư Trần Văn Quân ở địa chỉ mẹ ghi kèm nhé.”
Tôi chết lặng. Cả đêm ấy, tôi không ngủ. Sáng hôm sau, tôi lặng lẽ đến gặp luật sư theo chỉ dẫn.
Ông cụ luật sư sau khi xác minh thông tin và đối chiếu mảnh giấy, gật đầu, rồi đưa tôi một bản hồ sơ:
– “Đúng như bà cụ dặn. Đây là bản di chúc riêng, chỉ được tiết lộ khi chị mang theo mảnh giấy giấu trong chiếc ca đó.”
Tôi gần như nín thở khi nghe ông đọc:
“Tôi – Nguyễn Thị Xuân – để lại toàn bộ số tiền tiết kiệm trị giá 3 tỷ đồng, cùng một mảnh đất 250 mét vuông ở quê, đứng tên tôi, cho con dâu trưởng – Lan. Đây là phần tôi âm thầm tích góp suốt nhiều năm. Cảm ơn con đã không bỏ rơi mẹ, ngay cả khi mẹ từng hắt hủi con.”
Tôi bật khóc – không phải vì tiền, mà vì cuối cùng, bà đã thừa nhận.
Ba ngày sau, trong buổi họp chia lại tài sản sau khi bổ sung thông tin, cả nhà sững sờ khi biết chuyện. Em dâu tôi không giấu được nét mặt ngạc nhiên, chồng tôi lặng người, còn bố chồng thì rơm rớm nước mắt.
Cái ca cũ tưởng như vô giá trị, lại là nơi mẹ chồng cất giấu món quà quan trọng nhất cho người con dâu từng bị lãng quên.
Tôi không hả hê, cũng không trả đũa ai. Tôi chỉ nhìn mọi người và nói:
– “Con không oán trách gì cả. Chỉ mong từ nay, mọi người sẽ hiểu: đôi khi thứ quý giá nhất không phải là tài sản lớn, mà là lòng biết ơn đúng lúc.”