Quê tôi có kiểu người nghèo đi đ.ám c.ưới tiệc thường sẽ ra sau bếp phụ nấu ăn, l.àm việc. Họ lặng lẽ gọt rau, rửa bát, nhóm lửa, mồ hôi nhễ nhại mà chẳng ai để ý. Còn người giàu thì chỉ có việc đến, ngồi vào bàn tiệc, ăn uống no say, lại được tôn trọng mời rượu, nâng ly cười nói rô.m rả. Vì thế, bố mẹ tôi rất ái ngại đi đ.ám c.ưới. Mỗi lần có thiệp mời, bố tôi lại thở dài: “Đi thì ngại, kh.ông đi lại mang tiếng với bà con.” Mẹ tôi thì bảo: “Thôi, cứ đến cho phải phép, ngồi một l.úc rồi về, đừng để ai nói ra nói vào.”
Đến khi cưới tôi, mọi chuyện lại khác. Cả xóm kéo đến đông đủ, ai cũng ăn mặc tươm tất, ngồi đầy mâm, cười nói rộn ràng. Chẳng ai ra sau bếp phụ giúp cả. Mẹ tôi chạy qua chạy lại, vừa lo cơm nước vừa ngó nghiêng, m.ặt đỏ bừng vì mệt. Bố tôi thì ngồi ở góc sân, tay cầm điếu thuốc, mắt nhìn xa xăm. Tôi biết bố buồn, nhưng l.úc ấy bận tiếp khách, chẳng kịp hỏi han.
Cuối buổi, khi tiệc đã tàn, mâm cỗ nguội lạnh, khách khứa lác đác ra về, bố tôi đứng dậy. Ông bước ra giữa sân, giọng trầm nhưng rõ ràng, vang khắp xóm: “Cảm ơn bà con đã đến mừng cho con g.ái tôi. Nhưng tôi nói thật, từ nay về sau, ai đến nhà tôi mà chỉ biết ăn uống, kh.ông phụ giúp gì, thì đừng trách tôi kh.ông mời nữa. Nghèo thì nghèo, nhưng t.ình nghĩa phải có trước. Đ.ám c.ưới con tôi, tôi kh.ông mong gì hơn ngoài cái t.ình xóm giềng, vậy mà hô.m nay, tôi thất vọng quá!”
Cả xóm im lặng. Có người cúi đầu, có người lảng tránh ánh mắt của bố. Từ đó, mỗi lần xóm có đám, người ta lại nhớ lời bố tôi. Dần dần, cái kiểu “nghèo phụ bếp, giàu ăn tiệc” cũng bớt đi. Bố tôi, dù kh.ông nói thêm lần nào nữa, vẫn lặng lẽ cười mỗi khi thấy bà con xúm vào giúp đỡ nhau, như cái t.ình quê ngày xưa ông từng kể.