Cả họ tôi ai cũng sốc khi nghe tin bà bác – chị gái ruột của mẹ tôi – bị ung thư giai đoạn cuối. Bà không chồng không con, sống cô độc bao năm, lặng lẽ làm lụng nuôi các cháu, gom góp từng đồng tiết kiệm. Đến lúc ngã bệnh, bà nằm liệt trong viện, người thân thay nhau chăm nom.
Mẹ tôi lúc ấy vừa ốm dậy, không thể vào viện nên nhờ dì – em gái ruột, cũng là người thân thiết nhất với bà bác – thay mặt chăm nom vài hôm. Ai cũng nghĩ tình ruột thịt, dì sẽ giúp vô điều kiện. Nhưng chiều hôm sau, dì gọi điện cho cả nhà, giọng rất tỉnh bơ:
“Tôi nói thẳng nhé, tôi đi chăm chị là đi làm công, không ai nuôi không ai cả. Một ngày 500 nghìn, không thì tìm người khác.”
Cả họ im lặng. Mẹ tôi chết lặng. Bà bác đang truyền nước, tay run run, đôi mắt đục ngầu chỉ biết quay đi, không nói lời nào.
Cậu tôi – em trai út – tức quá, định quát, nhưng bà bác lắc đầu. “Thôi… người ta sống sao thì mình biết vậy.”
Mấy ngày sau, dì vẫn chăm – nhưng mặt nặng mày nhẹ, dằn từng câu với y tá, bĩu môi khi thay tã, gắt lên khi bà bác gọi nhờ đi vệ sinh. Có lần, tôi đi qua hành lang thấy bà bác cố gắng nhấc tay, nói khẽ với tôi:
“Cháu ơi, cho bác xin cái khăn lau miệng… dì mày bận điện thoại rồi.”
Tôi điếng người. 500 nghìn một ngày… để nhận lại một sự lạnh lẽo không bằng người dưng.
Tới lúc bà bác mất, dì cầm mấy tờ hoá đơn viện phí, đứng giữa nhà nói dõng dạc:
“Tổng cộng 6 ngày, 3 triệu. Không kể tiền thuốc men tôi bỏ thêm.”
Cậu tôi rút tiền, ném lên bàn. “Của chị hết đó. Tình máu mủ chị để ở đâu rồi?”
Dì không nói gì, lặng lẽ nhặt tiền. Nhưng cả họ không ai còn nhìn dì bằng ánh mắt cũ nữa.
Sau đám tang bà bác, họ hàng vẫn nhắc mãi về chuyện dì tôi đòi tiền chăm người hấp hối. Ai cũng lắc đầu, người thương xót bà bác bao nhiêu thì càng giận dì bấy nhiêu.
Thời gian trôi qua, ai nấy bận bịu cuộc sống riêng, chẳng còn liên hệ nhiều. Dì tôi thì sống một mình trong căn nhà nhỏ dưới quê, chồng mất sớm, con cái đi làm xa, hiếm khi về.
Đến một ngày, tôi nhận được cuộc gọi từ hàng xóm:
“Dì cháu ngã trong nhà vệ sinh từ tối qua. Đến trưa nay người ta mới phát hiện. Gọi mãi mà không thấy ai lên thăm.”
Tôi lật đật về quê. Căn nhà lạnh ngắt, dì nằm trên giường bệnh, gầy rộc, chân bó bột, ánh mắt dại đi vì đau và mệt. Dì thấy tôi, chỉ khẽ rên lên:
“Cháu… cứu dì… gọi con giùm…”
Tôi gọi điện cho con trai dì, nó nói thẳng:
“Cháu đang kẹt việc, không về được. Nhờ họ hàng lo giùm vài hôm.”
Tôi giận tím mặt. Vài hôm? Y như cái cách dì từng “chăm” bà bác tôi – cũng vài hôm – với giá 500 nghìn một ngày.
Tôi chăm dì ba ngày liền. Không tiền thuê y tá, không ai giúp. Đến ngày thứ tư, tôi phải quay về Hà Nội đi làm. Trước khi đi, tôi hỏi:
“Dì có gọi thêm ai không?”
Dì im lặng. Nước mắt chảy lăn dài trên gò má nhăn nheo.
Tôi để lại nửa nồi cháo, một túi thuốc, rồi đi. Trên đường ra bến xe, tôi nhìn lại căn nhà – tối thui, không tiếng người, không ánh đèn. Một khung cảnh y hệt ngày bà bác hấp hối.
Cả đời, dì sống tính toán, giữ phần hơn cho mình. Đến lúc cần nhất, chẳng ai ở bên, cũng chẳng ai đòi 500 nghìn để chăm bà như bà từng làm.
Trong họ không ai quay lại. Ai cũng nhớ câu nói năm nào:
“Tôi đi chăm là đi làm công. Không ai nuôi không ai.”
Và giờ, chẳng ai làm không cho bà nữa.