Bị chồng bỏ từ năm 38 tuổi, bà lão bán hàng rong vẫn mua được 4 căn nhà Sài Gòn và nuôi 8 người con thành đạt, 6 con là Việt kiều

Ngồi trước m.ặt tôi là một người phụ nữ gầy nhỏ lưng đã còng xuống nhưng đôi mắt vẫn còn tinh anh và nụ cười thân thiện luôn nở trên môi. Nhìn dáng người như thế khó có ai nghĩ bà là người phụ nữ có hàng ngàn lượng vàng trong tay. Tên thật của bà là Đỗ Thị Lan, s.inh ra và lớn lên ở Đà Nẵng nhưng gốc quê n.goại ở Huế lại mấy chục năm bươn chải bán rong các loại bánh đặc sản xứ Huế nên mọi người thường gọi bà là Năm Huế.

Dú đã 85 tuổi nhưng bà Năm Huế đi lại vẫn nhanh nhẹn, tinh mắt thính tai, tính t.iền cho khách rất nhanh và kh.ông sai một cắc. Nhìn lại đời mình, bà Năm ngậm ngùi kể. Bà mồ côi mẹ từ khi lên bảy tuổi, suốt những năm tháng tuổi thơ bà s.ống với cha và mẹ kế. Kh.ông phải t.ình máu mủ, lại sẵn tư tưởng hẹp hòi nên mẹ kế kh.ông cho bà Năm đi học. Đời bà có được đôi ba chữ đủ để nhận m.ặt mệnh giá đồng t.iền và tính t.iền cho khách là do bà học lỏm mỗi khi có dịp đi ngang lớp học của ông thầy đồ gần nhà. Lên 10 tuổi đầu bà Lan bắt đầu cuộc s.ống mưu s.inh buôn bán ở chợ đời.

Cuộc s.ống vất vả nhọc nhằn, tự lực cánh s.inh đã hình thành nên ở bà Năm một phẩm chất chịu thương chịu khó và chắt chiu tằn tiện. Bà tâm niệm, phải kiếm ra nhiều t.iền để tự trang trải cuộc s.ống và hiện thực hóa những ước mơ, những khao khát mà suốt tuổi thơ thiếu thốn bà hằng ấp ủ. T.iền với bà là một triết lý s.ống, một phương châm cho mọi hành động và ứng xử. Bà quý trọng đồng t.iền và cẩn trọng trong l.àm ăn buôn bán, có ý thức tích tiểu thành đại.

Năm 20 tuổi bà Năm lấy chồng. Vì chồng bà có mấy người anh theo cách mạng tập kết ra Bắc nên ông phải l.àm việc cho chế độ cũ để kh.ông bị bắt bớ. Năm 1956 bà bồng con theo chồng lên Buôn Ma Thuột nơi ông l.àm việc. Công việc của bà lại vẫn là buôn bán nuôi con. Năm 1960 gia đình bà lại chuyển về Sài Gòn s.inh s.ống, bà mở một tiệm cơm bình dân chủ yếu bán cho binh lính. Cho đến ngày gần g.iải phóng thì ông bỏ bà đi lấy vợ khác.

Quán bánh Huế của bà Năm Huế ở m.ặt t.iền căn nhà bà mua được từ chính t.iền bán bánh rong tích cóp.

Cái “lý do” mà ông thuyết phục và trấn an bà là: “Trước sau gì rồi cách mạng cũng thắng và chế độ cũ sẽ sụp đổ, mình phải lấy một người vợ Bắc để khỏi phải đi tù”. Thế là 37 tuổi đời, một nách 8 người con nheo nhóc, bà Năm ô.m vết thương lòng, cắn răng gồng mình bươn chải nuôi con bằng đủ thứ nghề, từ l.àm thuê l.àm mướn cho đến buôn thúng bán bưng, miễn là kiếm được t.iền để đàn con kh.ông ch:ết đói.

Có thời điểm bà phải xin đi rửa chén bát với mức t.iền công rẻ mạt để học nghề l.àm các loại bánh từ bánh khảo cho đến bánh bò rồi đến bánh nậm, bánh bột lọc, bánh cuốn thịt, nem chua, tré đều là những loại bánh đặc trưng của xứ Huế. Khi đã học được nghề rồi, xét điều kiện của mình kh.ông đủ vốn liếng mở cửa hàng, bà Năm l.àm một gánh hàng rong đi bán. Cũng vì kh.ông có vốn, bà phải xin được người ta bỏ mối bánh và lấy t.iền sau. Rồi bà tự lực l.àm lấy bánh để bán.

Bà Năm Huế và tác g.iả bài viết.

Cứ 9h sáng hàng ngày bà gánh bánh đi đến 1h đêm mới về ngả lưng vài tiếng trong căn nhà t.ồi tàn của mình, khi đàn con đã say giấc ngủ. 4h sáng bà đã lại dậy xay bột l.àm bánh, rồi 9h lại quẩy gánh hàng rong đi. Ngày tháng của bà cứ tuần tự như thế. Những đứa con lớn lên, được ăn học đàng hoàng là nhờ vào gánh hàng rong của bà.

Hơn 40 năm l.àm nghề bán bánh rong, có nhiều khi buôn bán bà bị trật tự chính quyền xua đuổi, thậm chí là bắt ký cam kết kh.ông được bán hàng rong ở khu vực trung tâm thành phố. Bắt bà thì cứ bắt nhưng bảo ký cam kết thì bà kh.ông ký: “Tôi ký hay kh.ông ký thì cũng thế thôi. Nay tôi ký mai tôi lại bán. Gánh hàng của tôi nuôi 8 người con, kh.ông cho tôi bán thì các con tôi ch:ết đói à”.

Mãi rồi các đồng chí công an khu vực và các nhà quản lý chính quyền cũng hiểu và th.ông cảm cho hoàn cảnh của bà. Hơn nữa, bà Năm bán rong nhưng lại rất có ý thức giữ gìn trật tự lại biết giữ gìn vệ s.inh đường phố. Bánh của bà thì ngon và dần dần nổi tiếng đến mức, nhiều người vẫn đợi bà đi qua cửa nhà mình để mua, như một thói quen.

Bà bảo: “Tôi nghĩ, mình cứ l.àm bánh cho sạch, cho ngon, thì đắt mấy người ta cũng ăn. Bánh và nem phải là loại gạo ngon nhất, thịt với tô.m phải tươi, l.àm phải sạch sẽ cẩn thận đảm bảo vệ s.inh và an toàn. Chỉ cần mình l.àm ẩu một lần người ta ăn thấy chán là sẽ m.ất uy tín và tiếng tăm. Giá cả cũng vậy thôi, một chiếc bánh mình ăn lãi ít nhưng bán được nhiều chiếc thì giữ được khách, nhiều khách đến với mình là mình lãi nhiều”.

Bà Năm tuyệt đối kh.ông bao giờ dùng loại bột chua hay hàn the và những loại thịt, tô.m ôi thiu để l.àm bánh. Phương châm và tôn chỉ của bà là kiếm t.iền. Nhưng chỉ kiếm t.iền bằng công sức chính đáng của mình chứ tuyệt đối kh.ông l.àm điều xấu. Bà rất vui vẻ, nhưng cũng rất nhẫn nhịn trong việc kiếm t.iền. Khách hàng dù có khó tính, cự nự hay nặng lời đến đâu, bà cũng kh.ông bao giờ to tiếng và lại.

Bà chia sẻ: “Họ nói gì kệ họ, họ c.hê thì mình tiếp thu nhưng quan trọng là mình nhẫn để lượm t.iền đi mua vàng. Tôi nghĩ họ bỏ t.iền ra mua đồ của mình, họ có quyền khen c.hê. Họ chưa hài lòng thì cũng là nhắc nhở mình l.àm sao phục vụ khách cho t.ốt hơn nữa. Tôi kh.ông nổi nóng bao giờ”.

Những món ăn dân dã do chính tay bà Năm chế bi.ến được khách hàng yêu thích.

Dù khi còn gồng gánh hay khi bà đã có tiệm riêng thì bà Năm vẫn luôn niềm nở và ngọt ngào dạ vâng, thưa cô thưa cậu chứ tuyệt đối kh.ông nói xẵng với khách. Cứ nhìn vào cái cách bà thu t.iền của khách rồi cẩn thận phân loại sắp sếp từng tờ t.iền mệnh giá khác nhau, rồi cho vào túi ni lông cuộn cẩn thận là đủ biết bà trân quý đồng t.iền đến mức nào. Từ khi còn l.àm thuê l.àm mướn cho đến khi tự mình buôn bán dù kh.ông biết chữ nhưng bà tính t.iền bằng cách nhẩm rất nhanh và kh.ông bao giờ nhầm lẫn. Cái cách bà chắt chiu cũng rất căn cơ.

Bà nói: “Tôi s.inh ra vốn nghèo khổ, nhưng tôi kh.ông khinh t.iền như nhiều người nghèo khác hay tỏ ra như vậy. Tôi kh.ông giấu giếm là tôi thích t.iền. Tôi tích cóp được chín đồng thì phải cố cho được mười đồng. Mọi người l.àm ăn to lớn thì nói t.iền chửa t.iền đ.ẻ thế nào, chứ tôi là tôi thích mua vàng để cất giữ”. Chi tiêu trong gia đình bà Năm cũng tằn tiện và tính toán để sao cho con cái vừa có ăn lại vừa học được cách tiết kiệm và quý trọng đồng t.iền. L.úc có nhiều t.iền rồi bà cũng kh.ông hoang phí.

Đối với các con, bà Năm rất quan tâm chuyện học hành. Theo bà nghĩ, mình học được l.àm được thì người ta phục vụ mình, mà kh.ông học được l.àm được thì mình phục vụ người ta. Chỉ với gánh hàng rong trên đôi vai gầy guộc vậy mà bà đã nuôi được 8 người con kh.ôn lớn và học hành thành đạt. Hiện tại có 6 người con của bà đang s.inh s.ống và l.àm việc ở các nước Mỹ, Đức, C.anada, còn hai người con ở lại với bà cũng là bác sỹ l.àm việc ở một bệnh viện lớn trong thành phố.

Nói về chuyện cho con đi học và s.inh s.ống ở nước ngoài, bà bảo: “Người ta đóng tầu cho con đi nước ngoài, tôi đây kh.ông đóng tầu nhưng cũng chẳng khác đóng tầu cho con đi”. Chỉ với gánh hàng rong mà bà Năm đã mua được bốn căn nhà ở Sài Gòn, mỗi căn nhà có giá khoảng 500 lượng vàng. Vừa rồi bà đã bán đi một căn 500 lượng để cho hai người con qua C.anada học và s.inh s.ống. Tuổi đã cao kh.ông còn đủ sức gánh hàng đi bán nữa, bà đã dùng một căn nhà trên một đường phố chính ở trung tâm thành phố để l.àm cửa hàng và vẫn chỉ bán những loại bánh như bao nhiêu năm bà vẫn l.àm. Bà kh.ông khuyến khích các con tiêu xài hoang phí và để rồi chúng s.inh ra lười nhác.

Nói về chồng mình, người đàn ông đã dứt áo ra đi, để lại bà tay trắng với 8 đứa con thơ dại, bà chia sẻ rằng, bà kh.ông hận ông mà chỉ giận thôi. Dù giận thì giận vậy, nhưng khi cuối đời sức khỏe yếu ông trở lại s.ống với bà, bà vẫn chăm sóc ông chu đáo và khuyên nhủ các con “kh.ông được giận bố vì có bố mới có các con”. Ông quay lại với bà được ba năm thì ông m.ất. Bà lo lắng cho ông chu toàn và cảm thấy rất thanh thản.

Ngồi tâm sự với bà gần hết buổi sáng, dù vừa trò chuyện vừa bán hàng cho khách, nhưng bà luôn tỏ thái độ chân t.ình và cởi mở. Biết tôi là nhà b.áo bà bảo: “Cậu viết thì cứ viết thôi nhưng có sao thì nói vậỵ. Chứ tôi già rồi chả còn s.ống được bao nhiêu, chẳng cần phải tô vẽ thêm t.hắt gì đâu”. Hỏi bà, sao nhiều tuổi rồi, kinh tế khá g.iả, con cái cũng trưởng thành thành đạt rồi mà bà kh.ông nghỉ ngơi an dưỡng tuổi già, bà chỉ mỉm cười: “Cậu hiểu cho, tôi kh.ông l.àm là kh.ông chịu được. Ngồi kh.ông buồn và ngứa ngáy chân tay lắm. Tôi sẽ l.àm đến khi nào kh.ông l.àm được nữa thì thôi”.

Thật khó có thể hình dung, một người phụ nữ gầy gò nhỏ nhắn mà nghị lực lại phi thường đến vậy. Nghe chuyện bà Năm, chợt nghĩ, chính thời thơ ấu gian truân vất vả đã dạy cho người phụ nữ này những bài học lớn về cuộc đời, về ứng xử trong thế gian, về l.àm giàu chân chính. Thực sự với một người có chí, chăm chỉ lao động, thì l.àm giàu kh.ông khó. Từ gánh hàng rong, bà Năm đã có thể trở thành một người giàu có, lo lắng đủ đầy cho các con. Bà xứng đáng được gọi là một doanh nhân, dù bà chẳng mơ hai chữ ấy, và cũng kh.ông hề thích khi được gọi như vậy.