Tôi là Kiên, làm việc ở thành phố hơn 12 năm, vừa quyết định về quê xây nhà trên mảnh đất thừa kế của cha mẹ. Khu đất nằm ở đầu làng, kế bên là nhà ông Thịnh – người nổi tiếng khó tính, hay xét nét từng ly từng tý. Dù đã chuẩn bị sẵn tinh thần, tôi vẫn không ngờ mọi chuyện lại căng thẳng đến vậy.
Ngay hôm đầu tiên thợ đến khảo sát, ông Thịnh đã bước sang, chống nạnh nhìn bản thiết kế. Ông chau mày nói: “Nhà cậu xây ba tầng thế kia thì nắng sáng sẽ không còn chiếu vào ban công nhà tôi nữa. Ông già này sống nhờ ánh nắng buổi sáng đấy!” Tôi bật cười, tưởng ông đùa, nhưng ánh mắt ông nghiêm túc đến lạnh người.
Tôi lịch sự giải thích rằng thiết kế đúng quy định, cách ranh giới theo luật, chiều cao trong giới hạn, hoàn toàn không vi phạm gì. Nhưng ông vẫn lặp đi lặp lại câu: “Cậu xây thế là chặn đường sống của tôi.” Nghe thì vô lý, nhưng tôi cảm nhận được đằng sau lời đó là thứ gì rất u uẩn.
Tôi vẫn tiến hành nộp hồ sơ xin phép xây dựng. Một tuần sau, khi công nhân vừa chuẩn bị đào móng, bất ngờ có một nhóm người kéo đến, chặn ngay trước cổng. Họ lớn tiếng phản đối, nói rằng không thể để tôi xây nhà ở đây vì sẽ phá vỡ “cảnh quan chung của làng”. Tôi hoang mang tột độ. Ai lại có thể đồng lòng đến mức ngăn người khác cất nhà trên đất của mình?
Tôi càng sốc hơn khi nhận ra trong nhóm ấy có bà Thoan, ông Lượng – những người tôi từng giúp sửa mái nhà, chở đi viện giữa đêm. Tôi lần lượt tìm gặp từng người để hỏi cho rõ. Hóa ra, họ bị ông Thịnh vận động, nói dối rằng tôi định xây nhà trọ cho thuê, làm làng xóm mất yên bình. Không ai biết thật sự mục đích là để ngăn tôi xây nhà riêng.
Người đứng ra kêu gọi là ông Thịnh. Tôi tìm đến tận nhà và hỏi thẳng: “Tại sao bác lại làm thế với cháu?” Ông nhìn tôi chằm chằm, không đáp, rồi đột ngột quay người đi vào trong. Một lúc sau, ông kéo tôi vào nhà. Trên bức tường cũ kỹ treo một tấm ảnh đen trắng: một cậu bé đứng cạnh một người phụ nữ có ánh mắt quen thuộc đến lạ kỳ…
“Đó là con trai tôi, nó mất năm 23 tuổi vì trầm cảm. Nó từng là họa sĩ, hay ngồi ở ban công này để vẽ bình minh. Tôi hứa với nó: sẽ giữ nguyên mọi thứ – góc nắng, chiếc ghế mây, cả mảng tường cũ kỹ này.”
Tôi lặng người. Một người cha giữ ánh nắng như giữ lại ký ức cuối cùng về đứa con đã mất. Tôi hiểu nỗi đau đó, nhưng tôi cũng có lý do để xây dựng một mái ấm cho gia đình mình.
Tôi về, suy nghĩ cả đêm. Tôi có nên bớt đi một tầng, hy sinh một phần thiết kế? Nhưng con tôi sắp ra đời, vợ tôi cần không gian, cha mẹ tôi từng ước ao có một ngôi nhà kiên cố ở quê. Tôi không thể vì quá khứ của người khác mà từ bỏ tương lai của chính mình.
Thế nhưng, sáng hôm sau, tôi làm điều không ai ngờ. Tôi giữ nguyên chiều cao ngôi nhà, nhưng thay đổi kết cấu: thay vì xây thẳng lên, tôi xoay mặt tiền lệch đi 45 độ, tạo khoảng trống hướng Đông Nam – hướng ban công nhà ông Thịnh – và dùng kính lấy sáng ở toàn bộ phần phía sau nhà.
Thi công vất vả hơn, chi phí tăng lên, nhưng tôi không thấy hối hận. Ông Thịnh vẫn không nói gì, chỉ thỉnh thoảng đứng từ xa nhìn sang. Ngày hoàn thiện nhà, ông không đến dự, nhưng tôi thấy ông đặt một nhành hoa trên lan can nhà mình, đúng nơi ánh nắng chiếu tới.
Ba tháng sau, ông Thịnh đột ngột nhập viện vì tai biến. Gia đình ông đã đi nước ngoài từ lâu, không ai chăm sóc. Tôi và vợ mang cháo, vào thăm. Ông nắm lấy tay tôi, ánh mắt dịu đi: “Cảm ơn vì cậu đã không phá đi ánh sáng của thằng bé.”
Ông mất sau đó một tuần. Tôi sang dọn giúp căn nhà, phát hiện một tập tranh cũ của con trai ông. Trong đó có một bức vẽ ban công nhà tôi – chưa từng tồn tại trước đây, nhưng được vẽ từ góc nhìn bên kia. Lạ thay, phía sau nhà tôi trong tranh có ánh sáng rực rỡ, cây xanh và… một gia đình đang cười nói.
Tôi dựng bức tranh đó ở phòng khách, như một lời nhắc rằng: quá khứ và hiện tại có thể hòa vào nhau, nếu ta chịu mở lòng. Và ánh nắng – thứ tưởng như nhỏ bé – đôi khi chính là cầu nối giữa hai thế hệ, giữa ký ức và hi vọng.