Tên tôi là Ngọc. Tôi sống cùng mẹ ở một vùng ven thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An. Bố tôi mất trong một tai nạn giao thông khi tôi còn học cấp hai. Từ đó, mẹ tôi – chị Hương, một người phụ nữ hiền lành, cần mẫn – vừa làm mẹ, vừa làm cha. Mỗi sớm tinh mơ, khi tôi còn đang ngủ, mẹ đã dậy từ ba giờ sáng để nấu xôi mang ra chợ bán. Trưa lại tranh thủ nhận may quần áo thuê cho bà con quanh xóm.
Cuộc sống khó khăn đã hằn lên mặt mẹ những nếp nhăn sớm. Có lần, tôi thấy mẹ nhìn vào gương và lặng lẽ chải tóc, ánh mắt đượm buồn. Dù vậy, mẹ chưa bao giờ than vãn. Chỉ có tôi, càng lớn càng thương mẹ nhiều hơn. Lúc ấy, tôi từng nghĩ: nếu một ngày nào đó mẹ tìm được một người tốt để nương tựa, chắc chắn tôi sẽ ủng hộ.
Và rồi, người đó xuất hiện.
Chú ấy tên Minh, làm quản lý ở một nhà máy giày da lớn trên thị xã. Chú gặp mẹ tôi trong một lần đi đặt may đồng phục công nhân. Không ai ngờ một người đàn ông từng trải, lịch lãm lại để mắt đến một người phụ nữ quê mùa như mẹ. Nhưng chú Minh không giấu giếm gì, từ sớm đã tìm cách đến nhà, trò chuyện, phụ mẹ khiêng xôi ra xe đạp, có hôm còn lén đặt mấy bó hoa trước cửa sổ.
Ban đầu, mẹ tôi sợ mang tiếng. Hàng xóm lời ra tiếng vào. “Góa phụ mà còn son rỗi là hay bị để ý lắm đấy!”, bà Sáu bán cá bên chợ buông lời. Nhưng tôi nói với mẹ:– Mẹ à, mẹ còn trẻ, mẹ có quyền hạnh phúc. Con ủng hộ mẹ.
Mẹ chỉ cười, đôi mắt hoe đỏ.
Chú Minh hơn mẹ tôi vài tuổi, kinh tế ổn định, có nhà cửa riêng ở thị xã, không vợ con gì. Theo lời chú, vì ngày trẻ mải mê sự nghiệp nên bỏ lỡ hôn nhân. Tôi lắng nghe mà cũng thấy nhẹ lòng thay mẹ. Chú Minh luôn tỏ ra tử tế, chưa từng cáu gắt, lời nói mềm mỏng. Sau gần một năm tìm hiểu, hai người quyết định tiến tới hôn nhân.
Đám cưới được tổ chức vào tháng Sáu – giữa mùa hè chói chang. Nhà trai thuê cả đội dựng rạp, mở cỗ hơn trăm mâm. Từ ngoài ngõ đã nghe tiếng nhạc sống rộn ràng. Mẹ tôi mặc áo dài đỏ, môi son rạng rỡ, tóc búi cao điểm trâm vàng. Tôi không thể tin được người phụ nữ ngày ngày nắng mưa lam lũ lại có thể xinh đẹp đến vậy.
Tối hôm đó, tôi ngồi trong phòng mà lòng rưng rưng. Cảm giác như vừa gả mẹ đi. Lòng nửa vui, nửa lo. Nhưng nhìn cách chú Minh luôn miệng nhắc nhở mẹ “đi nhẹ thôi kẻo đau chân”, hay “em mệt chưa, để anh đưa em vào nghỉ”, tôi tự trấn an: chắc mẹ sẽ ổn thôi.
Sau đám cưới một tuần, mẹ dọn lên nhà chú Minh. Tôi khi đó đang học năm cuối đại học ở Vinh nên vẫn ở ký túc xá. Ban đầu, mẹ gọi điện cho tôi mỗi tối. Khoe nào là nhà rộng rãi, máy giặt mới, có máy lạnh, buổi sáng được chú đưa đi ăn bún, chiều thì đón về nhà, cuối tuần đi siêu thị…
– Mẹ thấy như sống ở một thế giới khác con ạ – mẹ cười, giọng nhẹ tênh.
Tôi thấy an tâm. Nhưng chỉ được hơn tháng, mẹ bắt đầu gọi ít đi. Khi tôi hỏi thì mẹ bảo “bận việc nhà” hoặc “máy chú ấy bị hư, không nghe được lâu”. Tôi linh cảm có điều gì đó không ổn. Một lần, tôi về nhà bất ngờ vào dịp lễ, ghé thăm mẹ mà không báo trước.
Chuyện bắt đầu lộ ra từ đây.
Tôi gõ cửa căn nhà màu kem – nơi mẹ và chú Minh đang ở – thì chính chú Minh ra mở. Mặt chú không giấu nổi ngạc nhiên.– Ủa… Ngọc… sao không gọi điện báo trước?
Tôi cười:
– Con muốn tạo bất ngờ cho mẹ. Mẹ đâu rồi ạ?
Chú ậm ừ rồi quay vào gọi mẹ. Mẹ tôi bước ra, gương mặt hốc hác, ánh mắt thiếu sinh khí. Tay mẹ có một vết bầm tím nhỏ ở cổ tay, như bị siết. Tôi vội hỏi:
– Mẹ sao thế?
Mẹ nhìn tôi, rồi nhìn chú Minh đang đứng sau lưng, cười gượng:
– À… mẹ vấp ngã lúc lau sàn… không sao đâu.
Tối đó, tôi ở lại. Lúc nửa đêm, tôi nghe tiếng cãi vã nhỏ trong phòng ngủ. Giọng chú Minh gằn lên:– Tao đã nói đừng để con bé về đây bất ngờ! Mày không biết giữ mồm giữ miệng à?
Mẹ tôi lí nhí:– Em xin lỗi… em đâu biết nó về…
Tôi nằm đó, người cứng đờ. Một cơn lạnh chạy dọc sống lưng. Sáng hôm sau, tôi giả vờ có lịch học và xin phép về lại Vinh. Mẹ tiễn tôi, ánh mắt buồn thăm thẳm. Khi ôm tôi, mẹ nói khẽ vào tai:– Đừng quay lại đây nữa, mẹ ổn mà.
Nhưng từ ánh mắt mẹ, tôi biết mẹ không ổn chút nào.
Tôi rời khỏi căn nhà ấy với tâm trạng nặng nề. Gió trên xe khách buổi trưa hắt vào mặt như cố gắng cuốn sạch những suy nghĩ xấu trong đầu. Nhưng tôi biết rõ: điều gì đó đang xảy ra với mẹ. Và tôi không thể giả vờ không thấy.
Tôi bắt đầu để ý hơn đến mọi chi tiết. Gọi điện cho mẹ thì luôn nghe giọng mẹ dè dặt, lúc nào cũng có vẻ đang “nhìn trước ngó sau”. Có lúc gọi tới, chú Minh bắt máy, rồi viện lý do “mẹ mày đang đi chợ” dù là 9 giờ tối. Tôi tìm đến cô Liên – bạn thân của mẹ từ hồi còn bán xôi – người từng hay tới lui giúp đỡ khi mẹ mới về nhà chồng.
Cô Liên khẽ kéo tôi ra quán cà phê nhỏ ven sông, giọng hạ thấp:
– Con đừng tin hết những gì thằng Minh thể hiện. Ngoài đời, nó nổi tiếng là người keo kiệt, độc đoán. Mẹ con bị nó kiểm soát đủ đường. Tiền nong bị giữ hết, đi đâu cũng phải xin phép. Từ sau đám cưới, bà ấy chỉ còn là… người giúp việc không công.
Tôi nghe mà tim thắt lại. Cô Liên còn bảo, có lần thấy mẹ tôi đi chợ mà trong ví không có nổi 50.000 đồng. Muốn mua mớ rau, mẹ phải nhờ bà hàng xóm trả trước, về xin “chồng” đưa tiền rồi quay lại trả sau. Lúc ấy, tôi thấy như có ai đang xiết chặt ngực mình.
Tôi không thể để mẹ sống như vậy.
Tôi quyết định đến tận nhà, lần này là có kế hoạch. Tôi gọi cho mẹ từ trước, nói rõ sẽ về một đêm duy nhất rồi đi ngay. Mẹ khuyên tôi đừng về, nhưng tôi cương quyết.
Khi tôi đến, chú Minh tỏ vẻ miễn cưỡng chào đón. Còn mẹ, dù gượng cười, nhưng đôi mắt lộ vẻ lo lắng tột cùng. Tối hôm đó, tôi ngồi nói chuyện thẳng với mẹ:
– Mẹ, có chuyện gì đang xảy ra? Mẹ nói thật với con đi. Chú ấy có đối xử tệ với mẹ không?
Mẹ cười nhạt, mắt nhìn xuống sàn:
– Phụ nữ đi bước nữa… đâu có quyền chọn lại. Có người chịu cưới đã là may mắn rồi, Ngọc ạ. Mẹ không sao, mẹ chịu được.
Tôi nắm chặt tay mẹ:
– Không ai đáng phải “chịu” như vậy, mẹ hiểu không? Mẹ có con. Con không cần mẹ sống trong nhà cao cửa rộng mà phải chịu đựng người chồng như vậy.
Mẹ im lặng. Một lát sau, bà mới nghẹn ngào:
– Mẹ sợ bị nói là “bỏ chồng lần hai”. Sợ con bị ảnh hưởng. Sợ cả làng, cả xã cười vào mặt. Mẹ từng nghĩ… ráng chịu chút, miễn là có nơi nương tựa.
Đêm đó, tôi không ngủ được. Tôi biết rõ, mẹ đang mắc kẹt trong một chiếc lồng son – nơi bà không bị đánh đập công khai, nhưng bị kiểm soát từng suy nghĩ, từng bước chân. Tôi biết rõ, nếu để lâu, sự “chịu đựng” ấy sẽ nuốt chửng phần còn lại của đời mẹ.
Tôi bắt đầu lên kế hoạch giúp mẹ rời đi. Đầu tiên, tôi nhờ một người anh họ – làm ở công an thị xã – âm thầm xác minh thông tin về chú Minh. Kết quả khiến tôi choáng váng: chú ấy từng có một đời vợ, ly hôn vì… bạo lực tinh thần và tài chính. Thậm chí có một hồ sơ dân sự về việc giam lỏng vợ cũ, nhưng không đủ bằng chứng để truy tố hình sự.
Tôi in hết thông tin đó ra, gặp mẹ tại một quán nhỏ. Khi thấy những tờ giấy trước mặt, mẹ tôi run lẩy bẩy. Tôi nói:
– Mẹ, người như vậy không thể gọi là chồng. Mẹ không đáng bị đối xử thế này. Mẹ có thể về với con. Nhà của mình luôn mở cửa với mẹ.
Mẹ khóc. Lần đầu tiên tôi thấy mẹ khóc nức nở như một đứa trẻ.
Tối hôm ấy, tôi trở lại nhà chú Minh với mẹ. Lúc vừa vào nhà, chú ta đã nổi đóa:
– Hai mẹ con cô tính cái gì? Lại đi kể xấu tôi với ai hả?
Tôi đứng chắn trước mẹ:
– Tôi đã biết hết về chú rồi. Chú không còn lừa được nữa đâu. Mẹ tôi sẽ dọn ra khỏi đây ngay mai. Và nếu chú làm gì cản trở, tôi sẽ đưa hồ sơ này cho báo chí và công an.
Chú Minh tím mặt, nhưng không thể làm gì. Mẹ tôi run rẩy thu dọn đồ đạc trong sự im lặng đến ngột ngạt. Tôi dắt mẹ bước ra khỏi cánh cửa đó – bước ra khỏi cái bóng mà suýt nữa đã vùi lấp cả phần đời còn lại của mẹ.
Hai tháng sau, mẹ tôi về lại căn nhà nhỏ ven làng, nơi có hàng rào hoa giấy cũ kỹ và chiếc bếp than tổ ong quen thuộc. Mẹ lại bắt đầu bán xôi buổi sáng, nhưng lần này không phải vì buộc phải mưu sinh, mà vì bà… tìm thấy lại chính mình.
Mỗi sáng tôi nhận được tin nhắn từ mẹ:
“Mẹ đang làm mẻ xôi đậu xanh mới, thơm lắm. Khi nào về mẹ nấu chè nữa nhé.”
Tôi biết, đó không phải là sự hạnh phúc hoàn hảo. Nhưng ít ra, nó là tự do.
Hôn nhân không phải là cái đích. Tự do, bình yên và nhân phẩm mới là thứ một người phụ nữ nên giữ lấy – dù đã một lần, hay nhiều lần bước qua tổn thương.