Tôi từng nghĩ mình chỉ cần sống tốt, thì trời không phụ. Nhưng sau ngần ấy năm, tôi nhận ra: không phải cứ hiền lành, nhún nhường là sẽ được yêu thương.”
Tên tôi là Ngọc, sống trong một căn nhà cấp bốn cũ kỹ tại ngoại ô Nam Định. Ít ai biết rằng trước đây, tôi từng là vợ của một doanh nhân có tiếng ở huyện – anh Khánh – người từng thề non hẹn biển sẽ bên tôi suốt đời. Nhưng đời không như cổ tích.
Tôi lấy anh năm 28 tuổi. Hai vợ chồng sống yên ấm, nhưng trời chẳng thương. Sau bảy năm cưới nhau, tôi vẫn chưa một lần mang thai. Tôi từng đi chạy chữa khắp nơi, từ Hà Nội đến Hải Phòng, thuốc Bắc thuốc Nam đều uống, châm cứu bấm huyệt không thiếu một thứ. Nhưng kết quả vẫn là một vạch đỏ chói mỗi lần thử thai.
Thế rồi một ngày, anh Khánh lạnh lùng đặt trước mặt tôi một lá đơn ly hôn, kèm theo đó là… một cái sừng bằng sứ – món quà cưới đùa cợt của đám bạn ngày xưa, giờ trở thành biểu tượng của sự phản bội. “Em không sinh được thì đừng ích kỷ giữ anh lại,” anh ta nói, mặt không một chút xót xa.
Tôi rời khỏi nhà anh, tay không, nước mắt cũng cạn. Trở về nhà bố mẹ đẻ với tâm thế trắng tay, tôi tự hứa với lòng sẽ không lấy thêm ai nữa. Tôi không còn lòng tin vào đàn ông. Tôi sẽ ở vậy, chăm sóc bố mẹ già thay hai người anh trai đã lập gia đình và ra riêng từ lâu.
Mười năm trôi qua, bố tôi – ông Đoàn – yếu dần theo tuổi tác. Tôi lo cho ông từng viên thuốc, từng bữa cháo. Tôi sống tiết kiệm, mở một tiệm tạp hóa nhỏ ở đầu ngõ, nuôi cả mẹ và bản thân. Tôi không cần nhiều – chỉ cần bình yên trong căn nhà cũ có bóng cha mẹ là đủ.
Nhưng rồi, như một vết cắt sâu, bố tôi mất vào cuối mùa đông năm ngoái.
Tang cha chưa kịp nguôi ngoai, thì anh cả – anh Thắng – bỗng dưng trở về từ thành phố cùng vợ con, vali lỉnh kỉnh như chuẩn bị về ở hẳn. Không hề báo trước, anh đẩy vali vào giữa nhà, ngồi phịch xuống ghế như thể nhà là của riêng anh vậy. “Giờ bố mất rồi, mẹ già yếu, tụi anh phải về lo chứ,” anh nói.
Ban đầu tôi cũng mừng. Tôi nghĩ ít ra anh cũng sẽ đỡ đần tôi chăm mẹ. Nhưng chẳng mấy chốc, tôi nhận ra anh không hề có ý tốt.
Anh chiếm luôn phòng của bố mẹ, bắt tôi dọn ra ngoài ngủ với mẹ. Căn phòng nhỏ hẹp, chật ních đồ đạc, tôi chẳng còn chỗ đặt chiếc nệm cũ. Mỗi tối trở mình là lưng tôi đau ê ẩm. Còn anh, vợ chồng con cái ở phòng riêng, bật điều hòa suốt đêm, cười nói rôm rả.
Một tuần sau, anh bắt đầu nói bóng gió:
“Em còn trẻ, cũng nên nghĩ lại chuyện lập gia đình đi, chứ ở vậy hoài cũng đâu có ích. Có chồng con lo thì đỡ vất vả.”
Tôi hiểu ý anh. Tôi im lặng. Nhưng khi tôi từ chối cuộc xem mặt mà anh sắp đặt, anh lập tức thay đổi thái độ. Khuôn mặt vốn vui vẻ giờ lạnh tanh, giọng đầy mỉa mai:
“Em sống ở đây mà không phụ giúp gì nhiều, không tính đến chuyện riêng thì đừng trách người khác phải tính giùm.”
Tôi chết lặng. Tôi từng nghĩ anh cả là người sống tình nghĩa, hóa ra anh chỉ chờ bố mất để chiếm căn nhà này – nơi tôi đã dành cả thanh xuân để giữ gìn.
Tôi không dám nói với mẹ. Bà yếu rồi, nếu biết sự thật chắc sẽ không chịu nổi. Tôi âm thầm dọn dẹp, sống lặng lẽ như cái bóng trong chính ngôi nhà mình từng là chủ. Nhưng mọi thứ thay đổi vào một buổi chiều tháng Ba, khi mẹ tôi gọi tôi vào phòng và đưa cho tôi một phong bì màu nâu đã úa màu thời gian.
“Bố con để lại cái này cho con. Ông dặn mẹ phải giữ kỹ, chỉ đưa cho con nếu anh con quay về tính chuyện bất công.”
Tôi mở phong bì, tay run run. Bên trong là một bản di chúc viết tay, có công chứng đỏ rõ ràng. Tôi không tin vào mắt mình.
Tôi lặng người khi đọc từng dòng chữ trong tờ di chúc. Nét chữ của bố tôi – ông Đoàn – vẫn nắn nót, chỉn chu như chính con người ông vậy. Trên giấy, ông ghi rõ ràng:
“Căn nhà này là tài sản chung của vợ chồng tôi. Tuy nhiên, sau khi tôi mất, phần của tôi sẽ để lại cho con gái út là Đoàn Thị Ngọc, người đã ở lại chăm sóc chúng tôi suốt hơn mười năm trời. Không ai có quyền tranh giành hay ép buộc con bé ra khỏi căn nhà này. Nếu xảy ra tranh chấp, pháp luật sẽ phân xử.”
Phía dưới là dấu mộc đỏ của Phòng công chứng huyện, ngày tháng được ghi cách đây hơn hai năm – tức là khi bố vẫn còn khỏe mạnh.
Tôi cầm tờ giấy mà tay run rẩy. Vậy ra bố tôi đã lường trước chuyện này. Ông biết sẽ có ngày anh cả quay về và tìm cách chiếm đoạt. Ông cũng biết tôi sẽ không đấu lại nếu không có một thứ gì đó thật chắc chắn. Tờ di chúc này là tấm khiên cuối cùng ông để lại cho tôi.
Tối hôm đó, sau bữa cơm, tôi mang bản di chúc ra, đặt trước mặt anh Thắng.
Anh nhìn thoáng qua, cười khẩy:
“Em đừng tưởng cái giấy lộn này làm anh sợ.”
Tôi bình thản đáp:
“Đây là bản gốc có công chứng. Nếu anh còn ép tôi đi, tôi sẽ nhờ luật sư.”
Không khí trong phòng bỗng chùng xuống. Mặt anh sầm lại. Chị dâu – vốn luôn giữ vai hiền lành – giờ cũng lộ rõ vẻ cáu bẳn. Chị gằn giọng:
“Vậy là em cố tình giấu, không muốn anh em đoàn tụ? Nhà này là của chung, sao em lại được quyền giữ hết?”
Tôi vẫn điềm tĩnh. Bởi vì tôi biết – lần đầu tiên trong đời, tôi không còn là kẻ yếu thế.
Anh Thắng bỏ đi ra ngoài, đập mạnh cửa. Mẹ tôi ngồi yên lặng từ nãy giờ, mắt rơm rớm nước. Bà nắm tay tôi:
“Con đừng sợ. Bố con thương con nhất. Ông biết con thiệt thòi bao năm rồi…”
Những ngày sau đó là chuỗi ngày căng thẳng. Anh chị cố tình không nói chuyện với tôi. Họ không còn đả động đến chuyện ép tôi đi lấy chồng nữa, nhưng tôi biết – họ đang tính toán điều khác. Tôi vẫn đi chợ, bán hàng, nấu cơm cho mẹ, như chưa từng có chuyện gì xảy ra.
Cho đến một buổi sáng, khi tôi đang dọn hàng ngoài ngõ, một người đàn ông lạ tới, mang theo tờ đơn ghi rõ: “Yêu cầu hòa giải tài sản thừa kế.” Anh tôi chính thức kiện, yêu cầu chia nhà.
Tôi không ngạc nhiên. Nhưng tôi không sợ nữa.
Tôi thuê một luật sư – chị Hạnh – người từng là bạn học cũ thời cấp 3. Sau khi xem xét các giấy tờ, chị Hạnh nói với tôi:
“Tờ di chúc này hợp lệ. Anh chị cô không có quyền chiếm nhà. Phần tài sản ông Đoàn để lại đã được phân rõ ràng. Cô cứ yên tâm.”
Cuộc hòa giải đầu tiên diễn ra tại Ủy ban xã. Anh Thắng giận dữ trình bày lý lẽ: nào là tôi “ở không”, “bám víu căn nhà”, “ích kỷ không chịu lấy chồng”… Nhưng khi đến lượt tôi, tôi chỉ đưa ra tờ di chúc và nói ngắn gọn:
“Tôi ở đây suốt 10 năm, chăm bố mẹ từng miếng ăn giấc ngủ. Căn nhà này không phải của riêng tôi, mà là kỷ niệm của gia đình. Nhưng nếu anh muốn chia, hãy chia theo pháp luật.”
Cuối cùng, cán bộ hòa giải kết luận: do di chúc hợp pháp, phần tài sản thuộc về tôi không được chia. Phần còn lại của mẹ vẫn đang sống và không có tranh chấp, nên anh Thắng không thể ép tôi ra khỏi nhà.
Sau buổi hòa giải, anh chị lặng lẽ thu dọn đồ, đưa con trở về thành phố. Trước khi đi, anh để lại một câu lạnh lùng:
“Cô sống cô độc cả đời cũng chẳng ai thương.”
Tôi không trả lời. Bởi vì tôi biết – tôi không cô độc. Tôi có ký ức của bố, tình thương của mẹ, và lòng tự trọng của chính mình.
Một năm sau…
Căn nhà cũ được tôi sửa lại đôi chút. Tôi lợp lại mái, quét vôi mới, giữ nguyên tấm biển gỗ ông Đoàn từng treo trước cửa có khắc bốn chữ: “Tề gia trị quốc.”
Mẹ tôi giờ yếu nhiều, nhưng nụ cười của bà dịu dàng hơn trước. Bà hay ngồi ngoài hiên, ngắm tôi sắp xếp hàng hóa, mỉm cười mãn nguyện.
Tôi – người đàn bà từng bị gọi là “không con, vô dụng” – giờ sống thanh thản trong chính ngôi nhà mình giữ lại bằng sự kiên định và công lý. Tôi không cần ai ban ơn thương hại. Tôi chỉ cần một chỗ để sống tử tế, và tôi đã có được điều đó.
“Phụ nữ không cần làm vợ, làm mẹ mới có giá trị. Chúng tôi có thể làm con – làm người – và vẫn xứng đáng được tôn trọng.”