Ông Lâm – thợ mộc già trong làng – cả đời nổi tiếng lành nghề, cẩn thận. Người ta bảo: “Thứ gì qua tay ông sửa thì bền chắc gấp đôi.”
Một buổi chiều tháng Bảy oi ả, bà Hòa – góa phụ sống ở cuối làng – tìm đến. Bà mảnh mai, khuôn mặt khắc khổ, tay nắm vạt áo run run:
– Ông Lâm, nhờ ông sửa giường giúp tôi. Giường nhà tôi cứ kêu cọt kẹt, đêm nằm chẳng yên.
Ông Lâm nhận lời. Trong làng, ai cũng ái ngại cho bà Hòa: chồng mất sớm, con trai đi làm xa, bà sống một mình trong căn nhà gỗ cũ.
Khi đặt tay lên chiếc giường lim trong phòng bà, ông Lâm thoáng ngạc nhiên. Dù đã dùng hơn chục năm, mặt gỗ lại trơn bóng lạ thường, như có ai đó mài dũa suốt ngày đêm. Ông lẩm bẩm:– Giường lim thường nhám sần, sao ở đây láng bóng thế này?
Ông cúi xuống, phát hiện dưới gầm giường thoảng mùi tanh ngai ngái. Trong nghề, ông từng nghe chuyện: nếu gỗ lim được ngâm máu quá lâu, nó sẽ bóng nhẵn bất thường. Ý nghĩ ấy khiến ông gai người.
Đêm hôm đó, lòng không yên, ông Lâm lén mang theo một nắm muối hạt – thứ người xưa tin có thể trừ tà – rắc lên mặt giường. Rồi ông giả vờ về nhưng thực chất nấp ngoài cửa sổ.
Nửa đêm, căn phòng vang lên những tiếng kẽo kẹt. Từ trên giường, một làn sương mờ mờ bốc lên, kèm theo tiếng khóc nỉ non như của đàn bà. Ông Lâm chết sững. Bóng bà Hòa ngồi co ro trên giường, nhưng bên cạnh lại thấp thoáng một hình dáng đàn ông đẫm máu, ôm ghì lấy bà.
Ông Lâm run rẩy, tay nắm chặt chuỗi tràng hạt, miệng lẩm nhẩm kinh Phật. Bóng người kia dần tan đi, để lại bà Hòa ngã vật xuống.
Sáng hôm sau, ông đem chuyện kể cho trưởng làng. Cả làng xôn xao. Người thì bảo bà Hòa nuôi “ngải”, người thì nói chồng bà chết oan nên hồn phách còn lẩn khuất.
Trưởng làng gọi bà Hòa ra đình. Bà run lẩy bẩy, rồi òa khóc:– Tôi giấu mọi người lâu nay. Thực ra, chồng tôi không chết bệnh như đã nói… Ông ấy say rượu, trượt chân ngã gãy cổ ngay trên chiếc giường này. Tôi sợ mang tiếng xấu nên chôn vội ngoài vườn, rồi bảo dối là chết bệnh.
Cả làng bàng hoàng. Thì ra chiếc giường lim thấm máu người, bao năm nay oán khí chưa tan. Còn sự “trơn bóng” khác thường chính là do vết máu thấm vào thớ gỗ, mài mòn theo thời gian.
Ông Lâm nghe xong, thở dài:– Bà Hòa, giấu sự thật chỉ làm oan hồn thêm dai dẳng. Giờ phải làm lễ giải, đưa hài cốt ông ấy về chôn cất đàng hoàng thì mới yên.
Nghe lời, bà Hòa quỳ xuống van xin làng tha thứ.
Hôm di dời mộ, trời đổ mưa xối xả. Khi mở đất, bộ hài cốt hiện ra ngay dưới gốc mít trong vườn, đúng như lời bà Hòa thú nhận. Người dân dựng bàn thờ, mời thầy pháp cúng tế. Giữa tiếng trống, tiếng chiêng, ai cũng rùng mình thấy bóng đen lướt qua, rồi tan dần.
Từ ngày đó, ngôi nhà của bà Hòa mới yên. Bà trở nên khép kín, ngày ngày chỉ quanh quẩn bên bàn thờ chồng, sám hối.
Ông Lâm thì mang nỗi ám ảnh: chỉ vì tò mò và một nắm muối hạt, ông vô tình khơi ra sự thật bị chôn giấu ba chục năm. Nhưng ông không hối hận. Ông tin rằng, sự thật dù đau đớn vẫn cần được phơi bày, để người sống lẫn người chết đều thanh thản.
Câu chuyện ấy trở thành lời răn trong làng: đừng giấu nỗi đau bằng dối trá, bởi sự thật sẽ tìm cách lộ ra, đôi khi theo cách đáng sợ nhất.
Và chiếc giường lim kia, sau lễ giải, được chẻ nhỏ đem làm củi, để chấm dứt mọi ám ảnh.